Thursday, April 12, 2012

CÁ NGỪ VI XANH, HEO ĐEN NHẬT (Kagoshima swine), THỊT BÒ KOBÊ

CÁ NGỪ VI XANH, HEO ĐEN NHẬT (Kagoshima swine), THỊT BÒ KOBÊ

GS Tôn Thất Trình
 
Ba sản phẩm nông nghiệp xuất cảng của Nhật ngày nay, có lẽ xuất cảng Việt Nam nên chú ý hơn chăng? :
Nhật muốn xuất cảng ba sản phẩm: cá ngừ vi xanh nuôi lồng kín, heo đen Kagoshima và bò Kobê.
Thế giới thèm khát cá ngừ -tuna Nhật , bò Wagyu và những món ăn ngon tinh tế ở những khách sạn xa xôi ngòai nước Nhật, tỉ như Nữu Ước ( Hoa Kỳ ) và Luân Đôn ( Anh Quốc ), đã khiến các nhà đầu tư và ngân hàng địa phuơng đứng sau lưng một khuynh hướng đầu tư bất thường ở Nhật, đã đổ 23 tỉ yên- đồng tiền Nhật ( 281 triệu đô la Mỹ )vào hơn một tá quỹ đầu tư ở các nông trang và trại nuôi cá biển tại Nhật. 4 trong số quỹ đầu tư thực phẩm này là của ông Daisuki Mori, đã góp10 tỉ yên từ các ngân hàng địa phương và các nhà đầu tư vào những dự án gồm có như nuôi cá ngừ, đa số ở đảo Lưu Cầu( ? ) Kyushu Island phía Nam Nhật, cách xa ô nhiễm phóng xạ lò điện hạt nhân Fukujima động đất và sóng thần, gây ra. Mori, 44 tuổi, nguyên là chủ ngân hàng thuộc nhóm Citigroup và hiện là chủ tịch Ngân hàng đầu tư Dogan Investments ở Thành phố Fukuoka City nói rằng: Thực phẩm là một lảnh vực ở Nhật có tiềm năng lớn lao. Các trại, nông trang địa phương nuôi cá ngừ, nuôi heo, và bò ở đảo Kyushu cần có liên kết mạnh mẽ hơn với những thị trường lớn ngoài nước Nhật. Yêu cầu về các sản phẩm thực phẩm Nhật tăng gia khiến cho ít nhất 25 ngân hàng địa phương, đã cung cấp thêm ngân khoản cho các nông dân ( và ngư dân ) Nhật nào muốn xuất cảng. Trong thời gian làm việc cho chi nhánh Citigroup ở Fukuoka, Mori đã đầu tư 48 triệu yên vào công ty chế biến cá biển Burimy, một công ty đã nuôi hàng trăm ngàn cá ngừ vi xanh – bluefin và cá nạng đuôi vàng – croaker yellow tail ở bãi rào ( lồng )-pens ngoài khơi đảo, cách bờ chưa đầy1 cây số. Công ty hy vọng bán ra năm 2012, hai ngàn cá ngừ vi xanh nuôi lồng, gấp đôi số lượng này năm tới 2013, theo lời Takahiro Hama, một gíám đốc của công ty. Burimy đang thảo luận cùng Tổ hợp Nomura Holdings lập công ty cổ phần công cộng tiên khởi – initial public offering để tài trợ cho tăng gia xuất cảng ở Trung Đông và ở Âu Châu.
 
1- Nuôi cá ngừ xuất cảng
    
Hội chế biến xuất cảng thủy sản Việt Nam – Vasep cho biết , năm 2011, xuất cảng thủy sản Việt Nam đạt 6.118 tỉ đô la Mỹ( 2-3 lần hơn giá trị xuất cảng gạo, năm 2011 đã trên 7 triệu tấn vượt mặt xa nước xuất cảng gạo thứ ba thế giới là Hoa Kỳ năm qua) , tăng 21 % so với năm 2010. Mặt hàng chính vẫn là tôm đạt 2.4 tỉ đô la đứng đầu là tôm sú ( 59.7%) và tham gia đột phá của tôm chân trắng ( 29.3 % ). Cá tra đứng hàng thứ hai đạt 1.805 tỉ tăng 26.5% với khối lượng xuất cảng trên 600 000 tấn. Mỹ và châu Âu vẫn là thị trường nhập cảng cá tra Việt Nam nhiều nhất ( Phương Duy, KHKT tháng 1 – 2012 ). Dự trù phấn đấu hầu đạt xuất cảng năm 2012 là 6.5 tỉ đô la Mỹ . Ngành nuôi trồng thủy sản Việt Nam hiện tiến bộ nhiều ở môi trường nước ngọt và nước lợ hay ven bờ nơi nước mặn xâm nhập. Nhưng nuôi cá biển khá xa bờ chưa mấy phát triễn, ngay cả ở vùng khai thác nuôi trồng hải sản Đồng Bằng Sông Cửu Long dài 700 km và vùng đặc quyền kinh tế biển Tây và phần Biển Đông này lên đến 360 000 km2 . Vì vậy cần khuếch trương ngành nuôi cá biển theo những kỹ thuật ngư trang và nuôi dưỡng cá tân tiến hơn, dùng nguyên liệu thức ăn cho cá nội địa phương hữu hiệu, rẽ tiền hơn, không làm ô nhiễm môi trường, lựa chọn các loại cá cho thị trường quốc tế rộng lớn?
Nhật đã xuất cảng 40% cá ngừ nuôi ở biển, đa số cho các kho tồn trữ và tiệm ăn ở hai tiểu bang California và New York- Hoa Kỳ, gồm luôn cả tiệm ăn Morimoto, một tiệm vùng Manhattan chủ nhân là Masaharu Morimoto , ngôi sao trình diễn ti vi Iron Chief- Đầu bếp chánh Soong chảo Sắt ( món đặc biệt là pizza cá ngừ dọn trên bánh mì bắp ( ngô )- tortilla dòn tan với hột ô liu – olives ). Năm 2011, xuất cảng Nhật đã vọt lên hơn năm 2010 là 16. 9 % về cá ngừ nuôi và 18.1 % cá nạng nuôi, trị giá 7.36 tỉ yên cho cá ngừ và 7.76 tỉ yên cho cá nạng, theo thống kê của Bộ Canh nông, Lâm nghiệp và Ngư nghiệp Nhật.
Cá ngừ Nhật nuôi là cá ngừ vi xanh Nam phương- southern bluefin tên khoa học la tinh là Thunnus maccopii, họ cá ngừ Scrombridae, một lọai cá sống ngoài khơi ở độ sâu trung bình – pelagic, thân trắng bạc, nuôi lớn đến 400 kg( 782 cân Anh ) bằng các lọai cá nhỏ tạp nham , mực , tôm… hay các động vật khác; thường được đánh bắt ở Thái Bình Duơng phần biển phía dưới Indonexia đến gần bờ biển miền Bắc Úc châu. Bảo đảm nguồn cung cấp cá ngừ vi xanh Nam phương làm thực phẩm, mà không làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên là một vấn đề quan trọng cho thế giới thế kỷ thứ 21. Cá ngừ vi xanh là một loại cá cao giá nhất, nhưng hiện nay phải đối diện với nhiều áp lực vì nạn lạm ( khai ) thác quá độ và có nguy cơ sụp đổ . Yêu cầu lúc rày rất cao: một con cá ngừ vi xanh nặng 342 kg, vừa bán đấu giá ở Chợ cá Nhât Danh Vang -Tsukiji Fish Market, đạt kỷ lục 32.49 triệu yên ( chừng 400,000 đô la Mỹ ). Sau đây là sơ lược báo cáo nuôi lồng ( bãi rào ) cá ngừ vi xanh của công ty Nhật Agrimarine ngày 28 tháng 6 năm 2011.
Nuôi cá ngừ vi xanh Nam Phương nhốt trong lồng lưới- net cages không mấy thành công trước đây vì có nhiều yếu tố giới hạn liên quan tới sinh sản , thức ăn cho cá và duy trì cho được một môi trường biển thích nghi. Khảo cứu mới đây của Viện đại học Tokai, Nhật bổn, đã đưa tới nhiều phương cách về chăn nuôi và cho ăn các cá ngừ vi xanh nhỏ – cá con , trong khi công ty AgriMarine đã thành công trong một kỹ thuật thay thế bền vững nuôi cá hồi. Tổ hợp AgriMarine Holdings, căn cứ ở Vancouver- Canada, tuyên bố đã thỏa hiệp với Viện Tokai làm dự án nuôi cá ngừ vi xanh kích thước thương mãi, sử dụng các lồng bãi rào theo hệ thống thành đặc bao quanh chứa cá nuôi của hãng. Dự án với Viện Tokai là một cách chứng minh thêm ứng dụng các lồng bãi rào nuôi cá của hãng cùng các kỹ thuật nuôi cá của viện, nuôi các loại cá giá trị cao.
Theo Richard Buchanan, Tổng Giám đốc AgriMarine, phương cách của hãng là để chứng minh độ mềm dẻo họat động ở nhiều loại môi trường nước khác, và có thể dùng để nuôi các loại cá vi lớn có giá trị cao, có thể xây đắp gần gũi thị trường hơn trên khắp thế giới. AgriMarine đã nuôi cá hồi Thái bình Dương – Pacific salmon và cá mè xứ mát lạnh – trout thành công ở Trung Quốc và ở Canada, và nhờ các dự án khảo cứu hãng đang làm với Cá Nạng Vàng – Yellow Croaker và cá ngừ vi xanh Nam phương, hãng đang cũng cố vị trí là hãng tiên phong áp dụng các kỷ thuật sản xuất nuôi trồng thủy sản khả thi – sustainable aquaculture production technologies.

 
Tháng 5 năm 2011, AgriMarine tuyên bố lập một hợp doanh với Viện khảo cứu Ngư nghiệp Châu Sơn ( ? )- ZFRI, Trung Cộng, để thực hiện một dự án thương mãi rộng lớn nuôi cá nạng vàng ( Tàu gọi là kim ngư, cá vàng kim – gold fish), theo hệ thống lồng bãi rào đóng kín. Các đàn cá nạng vàng hoang dã đã giảm sút rất nhiều kể từ thập niên 1970 và nay đựợc nuôi ở đại dương trong lồng lưới đóng kín tại tỉnh Phúc Kiến. Nhưng phương cách này góp phần vào ô nhiễm, bệnh tật cá nên phải dùng thuốc kháng sinh, khiến phẩm giá thịt cá sinh ra nhiều vấn đề. Các khảo cứu trước đây nuôi cá nạng vàng sử dụng thức ăn chế biến công nghệ do Hiệp hội Đậu nành ( đổ tương ) Hoa kỳ -ASA phối hợp với quận Ngư Nghiệp Bình Dương-Pin Yang County tỉnh Phúc Kiến thực thi. ASA cũng cố vấn làm công thức thực phẩm cho cá nuôi cho khảo cứu chung AgriMarine và ZFRI. Trị giá cá nạng vàng nuôi ở Trung Cộng nay hàng năm đã trên 460 triệu đô la Mỹ, tiêu biểu cho gần 70,000 tấn cá, tương đương kích thước thị trường ngành công nghệ nuôi cá hồi tại bang British Columbia, Canada. Giám đốc Luo của ZFRI cho biết là nuôi cá nạng vàng thành công ở hệ thống đóng kín , sẽ giải quyết xong yêu cầu của nhà tiêu thụ cho cá lành mạnh và phẩm giá thịt cá tương đương với các đặc điểm các đàn cá hoang dã. Đây cũng là dự án đầu tiên nuôi cá nạng vàng sinh cường trong lồng lưới bải rào đóng kín với phương tiện lấy ra được phế thải. Cá con được chuyễn đến các cơ sở nuôi và sẽ đạt kích thước thu họach sau 8 tháng nuôi. Cá nặng tối thiểu 500gr một con, sẽ đem bán ở các chợ Thượng Hải chỉ cách các cơ sở nuôi chừng 4 giờ chuyên chở. ZFRI là cơ quan khảo cứu và phát triễn của chánh phủ Tàu, chuyên môn về nuôi các lòai cá nước ấm có tiềm năng giá trị thương mãi. Theo các chi tiết hợp đồng, ZFRI sẽ cung cấp phương thức nuôi trồng và cơ sở để thực hiện kỷ thuật mới AgriMarine cung cấp. Họa kiểu và xử lý xây cất do các chuyên viên và cố vấn Canada của AgriMarine cung cấp và mọi trang bị đều do các nhà chế tạo Tàu làm ra. Đôi bên đã thỏa thuận phát triễn đại trà tòan vẹn họat động nuôi cá lồng bải rào đóng kín, căn cứ trên các thử nghiệm kích thước thương mãi đã thành công mỹ mãn và thị trường đã chấp nhận cá nạng vàng nuôi vững bền ở hệ thống bải rào đóng kín. Kỷ thuật AgriMarine đã giải quyết được nhiều vấn đề môi sinh của phương thức nuôi cá trong lồng lưới và đã thõa mãn yêu cầu của các nhà tiêu thụ và bán lẽ cho nuôi trồng thủy sinh vững bền- sustainable aquaculture, trong khi vẫn bảo vệ được môi trường ( ? ). Chúng tôi không rõ Hiệp hội công nghệ hải sản Việt Nam đã tiếp xúc trực tiếp với AgriMarine – Canada ( thay vì qua trung gian các hảng Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan v.v… ), đại học Tokai chưa ) để biết rỏ hơn hệ thống nuôi lồng bải rào kín, lấy ra được phế thải ô nhiễm … và các kỷ thuật sinh sản cá giống sạch bệnh, nuôi mau lớn và cách chế biến thức ăn với các sản phẩm địa phương nước nhà …, nuôi 4 lọai cá ngừ VN là ngừ vi vàng – yellowfin tuna Thunnus albacores, ngừ mắt to Thunnus obersus , ngừ albacore Thunnus alalunga , ngừ vằn Katsuwonus pelami … các lọai cá ngon như cá chẻm ,vuợc lai- hybrid sea bass, các lòai cá mú như mú nghệ Epinephelus lanceolatus v.v.… bổ sung xuất khẩu tôm và các lọai cá tra, bông lau nước ngọt…?

 
2- Heo đen Nhật- Kagoshima swine  
Các ngân hàng địa phương Nhật bổn, đối diện với những lãi xuất cho vay xanh xao thiếu máu 1.04 % , đang cố gắng kiếm lợi từ tính cách phổ thông các món ăn tinh tế Nhật. Ngân hàng Kagoshima, căn cứ ở Kyushu đã tăng thêm ngân khỏan cho nông dân vay muốn tập trung vào các thực phẩm đặc thù xuất khẩu thay vì trồng lúa hay trồng mía cho tiêu thụ nội địa . Các nông dân nuôi bò Wagyu và nuôi heo đen Kagoshima đang hưởng thụ ngân khỏan cho vay tăng gia, theo lời Masanaka Mei, trưởng ban đề xướng thương mãi của ngân hàng, đã tháp tùng chủ tịch cho vay Motohiro Kamimura , thăm viếng Á Châu và Âu Châu cùng những khách hàng dò thăm các thị trường. Heo đen Nhật có nhãn hiệu thương mãi Kagoshima Kurubota là một giống heo hiếm có thịt chứa nhiều mỡ và bán cao giá nhờ cơ cấu và mùi vị đặc biệt.
Cũng như ở Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan …lọai thịt dân Nhật thích ăn nhất là thịt heo. Số thịt heo Nhật tiêu thụ bằng thịt gà và thịt bò nhập lại. Mãi đến thập niên 1960, ngòai dân thành phố Tokyo, dân Nhật chỉ ăn thịt bò lúc lễ lạc tiệc tùng ngay cả ăn đĩa cơm thịt bò – beef on rice gyùdon giản dị thường lệ mà chỉ ăn các đĩa thịt heo thường xuất hiện vào bửa cơm tối. Đĩa thịt heo phổ thông hơn hết là tonkatsu, một cốtlét- cutlet hay thịt thăn, phi lê- filet chiên dòn và phủ bánh mì , tương tự đĩa thịt Âu Châu schnitzel . Từ tonkatsu là phối hợp từ Nhật ton nghĩa là heo và từ Anh rút ngắn cutlet , nói theo cách Nhật phát âm. Trong khi đó katsuretsu là cốt lét phủ bánh mì chiên bơ đã xuất hiện trong các sách nấu ăn từ năm 1895, tiến trào mau lẹ qua chiên dầu thực vật vì dầu thực vật thích hợp thị hiếu Nhật, hửu hiệu chiên xào và rẽ tiền hơn bơ- butter. Khác cơm cà ri hay các cơm yòshoku ,Tây phương ảnh hủởng đến các đĩa ăn Nhật đã thay đổi nhiều từ cuối thế kỷ thứ 19 đến giũa thế kỷ thứ 20, tonkatsu được các tiệm ăn truyền thống Nhật, tỉ như các khách sạn soba ôm đồm, nhưng các tiệm soba cũng mất sự nghiệp vì các tiệm ăn mốt mới kiểu Âu Châu. Các tiệm mới này xem tonkatsu là đĩa thịt rẽ tiền, dễ làm, dù nhiều thực chất và ăn mau no. Các tiệm dọn tonkatsu phát triễn mạnh mẽ các thập niên 1950 – 1960 sau Thế chiến Thứ hai. Vài tiệm vẫn còn thịnh vượng như Ginza Bairin ,thành lập năm 1927 nay mở chi nhánh ở HongKong, Singapore và Hawaii; và Maisan in Aoyama , một đàn bà Nhật thành lập năm 1965, nay là một trong những tiệm bán các sản phẩm tonkatsu làm sẳn ( katsudon , katsu karè , katsu sand , kushikatsu, tonkatsu ramen…) khắp nước Nhật. Thịt heo là thành phần nổi bật cách nấu nướng Kagoshima và Okinawa ( đảo Ryukyu ).
Kagoshima là nơi sản xuất thịt heo lớn nhất nước Nhật và giống heo đen Kagoshima kurobuta có lẽ là giống heo nổi danh nhất ( thời đệ nhất Cộng Hòa miền Nam, nổi bật nhất có thể là heo vá Thuộc Nhiêu- Mỹ Tho và heo Sóc Trăng (Ba Xuyên) ? ). Danh tiếng heo kurobuta đã lan tràn quốc tế, các đầu bếp chánh khắp thế giới luôn luôn nhấn mạnh tên kurobuta ở các đĩa thịt heo họ dọn ra. Khôi hài thay Kagoshima kurobuta cận đại lại là một giống heo lai giữa heo đen Anh Bershire và các giống heo đen nội địa Nhật. Các giống kurobuta khác, ngòai Kagoshima, có thể là những giống lai với các Berkshires Hoa Kỳ.
Heo đen Anh lòai Bershire được xem là “ giống heo xưa đời nhất Anh Quốc” nguồn gốc quanh hai thị trấn chợ Faringdon và Wantage, ở thung lũng Vale Ngựa Trắng – Vale of the White Horse quận anh Bershire. Năm 1974, ranh giới các quận Anh thay đổi nên vùng này, nay thuộc quận Oxfordshire. Heo Bershire trở nên phổ biến ở các vùng nước Anh khác, khi quân đội Cromwell đóng tại thị trấn Reading, vào thời Nội Chiến Anh Quốc. Ngày nay heo Bershire là con cháu của đàn heo các vua Anh, duy trì từ đầu thế kỷ thứ 18 . Đặc điểm heo Bershire trưởng thành sớm là một lớp lông ngắn đen bao phủ khắp thân thể, thường xen lẫn lông trắng ở chân cẳng, mặt và chóp đuôi heo. Mõm heo hình đĩa, và độ dài trung bình. Tai heo Bershire rất lớn , thẳng đứng hay hơi nghiêng về phía trước. Cổ heo đẹp đẽ không nhăn nheo, xương dẹt vai nghiêng dốc rỏ rệt. Chân cẳng chúng ngắn , thẳng và bụng dưới cũng thẳng, không phệ( sệ ) như heo ta, nòi giống Poland China ? Thịt heo Bershire nổi tiếng nhiều nước -juicy, mùi vị ngon và mềm, thóang màu hồng và pha lẫn nhiều mỡ – marbled. Thịt cũng chứa nhiều chất béo, thích hợp cho nấu lâu và ở nhiệt độ cao. Hình như thời Pháp thuộc, chánh quyền thuộc địa có phân phát heo đen Bershire du nhập cho dân Quảng Trị ( Triệu Phong ? ) nuôi thử, nhưng chuồng trại nông dân nghèo quá nhỏ không chứa nổi giống heo ngọai quốc hung hãn này , cũng như thức ăn cho heo còn quá khiêm tốn, thiếu kém chất dinh dưỡng, khiến heo chậm lớn , nên chương trình thất bại.
3- Bò Wagyu cho thịt bò Kobê danh vang thế giới
Bò Wagyu được du nhập vào Nhât lần đầu tiên ở thế kỷ thứ hai sau Công Nguyên để giúp cày ruộng lúa nước Nhật bổn. Vì Nhật đất dốc, hiểm trở, di cư chuyễn bò chậm rì và bị giới hạn. Bò có khuynh hướng cô lập ở vài vùng nhỏ bé và mỗi vùng căn bản là những giống bò nguồn gốc di truyền gần gủi nhau. Từ năm 1635 đến năm 1868, các tướng quân Mạc Phủ – shogun lại cấm nuôi bò. Đất đai núi non hiểm trở tạo nên vài nơi nuôi bò với nhiều giống khác nhau và các kỷ thuật nuôi cũng khác nhau. Thành quả lúc đó là các giống bò Nhật mỗi nơi có những đặc điểm khác biệt nhau. Nhưng sau thời gian lâu dài, Nhật cũng tạo ra ở vùng Kobê và vài nơi khác, một giống bò có tiêu chuẩn mùi vị và thịt mềm đặc biệt cho cả thế giới tìm thưởng thức. Rồi nhờ hai chục năm khảo cứu và phát triễn, thịt bò Kobê ngày nay đã bỏ xa, trên phương diện nấu nướng ăn nhậu, mọi lọai thịt bò khác sản xuất tại Nhật. Cuối cùng giống bò wagyu lại chuyễn tới những quốc gia khác Nhật.
Trước tiên, các công ty thịt bò Nhật để ý tới Úc châu, vì Úc gần Nhật và Nhật không còn mấy đất đai địa lý nuôi những đàn bò lớn giống wagyu nữa. Tuy nhiên, hạn hán đã gây tai họa cho nhiều nơi nuôi bò Wagyu ở Úc và cũng làm hư hỏng nhiều lọai cỏ và ngũ cốc nuôi bò wagyu. Cho nên phẩm gía thịt bò Wagyu Úc chỉ được xếp vào lọai thịt bò Kobê tốt nhất hạng 3 thôi. Lẽ dĩ nhiên là đối với thương gia Nhật thịt bò wagyu ở Nhật mới là thịt bò Kobê tốt hạng nhất. Bò Wagyu nuôi ở Hoa Kỳ đứng hạng nhì về phẩm giá.Vì cách xếp hạng và giá cả thấp-cao tùy hạng này, bò Kobê trở thành lọai thịt nền móng – backgrounder hơn là thịt kết liễu- finisher của những món thịt bò wagyu. Nhưng ngày nay, Úc đã trở lui lại có thịt kết liễu những đàn bò wagyu rất to lớn lai giống – crossbred cattle xếp hạng quanh các mức độ 3, 4, 5 ở Hệ thống Thịt pha lẫn Mỡ Nhật – Japanese marbling System ,cũng như các đàn bò nhỏ hơn tòan máu wagyu xếp hạng cao hơn. Thời tiết tuy nhiên vẫn còn là một vấn đề, khi làm kết liễu những đàn bò này.
Dòng tiến triễn di truyền học wagyu ngày nay xảy ra ở Hoa Kỳ vào thế kỷ thứ 19. Lúc đó, một nhóm bê wagyu được đưa đến viện đại học Washington State University – WSU, để thử nghiệm xem các các bò wagyu này hửu hiệu ra sao, khi cho ăn các thức ăn súc vật Hoa Kỳ và các chế độ ăn uống một thời gian lâu dài. Rồi khi trở thành bò kết liễu sẳn sàng hạ thịt , WSU đến ông RL Freeborn để thị trường hóa thịt bò Wagyu đầu tiên nuôi ở Hoa Kỳ, vì RL Freeborn có hiểu biết và doanh vụ rộng rãi cùng dân Nhật với bò Angus nuôi lâu ngày. Từ đó R L Freeborn tiếp tục nuôi và bán thịt bò wagyu ở Hoa Kỳ. RL Freeborn là công cụ chánh cho doanh nghiệp thịt bò Wagyu Hoa Kỳ – American Wagyu beef business hơn bất cứ người nào khác, ở Hoa Kỳ và là một nhà vận động lớn – crusader theo dõi di truyền wagyu Hoa Kỳ hầu tìm ra những siêu bò đực giống- super bull, có khả năng sản xuất bò wagyu mức độ xếp hạng cao và có phí tổn kinh tế thấp. Như thế có nghĩa là giá cả thịt bò wagyu rẽ cho công chúng nữa. Các nhóm bò wagyu làm giống đưa tới Hoa kỳ thế kỷ thứ 19, thật ra là để có dễ dàng tinh dịch – semen bán cho Úc, vì lúc đó Hoa Kỳ và Nhật đang thương thảo gay go các vấn đề thương mãi và thuế quan cao giữa hai quốc gia. Rồi thật là minh bạch, khi thức ăn súc vật cao năng phong phú ở Hoa Kỳ, cỏ hòa bản giàu protein, giá cả kinh tế rẽ rề, khiến Nhật sẳn sàng mua thịt bò wagyu nuôi và gói ghém ở Hoa Kỳ và đưa thịt bò này vào hệ thống bán lẻ đồ sộ ở nước Nhật.

( Theo Wikipedia 30/3/2012 và Blomberg Business Weeks số 19-25/3/2012)
(Irvine, Nam Ca Li , 03/4/2012)

No comments:

Post a Comment