Tiếng Lóng Sài Gòn
Một thời, một nơi chốn nào đó, trong đời sống ngôn ngữ dân gian lại nảy sinh ra một số tiếng lóng, một số thành ngữ, một câu hát nhại theo câu hát chính phẩm, hầu hết là để châm biếm, tạo nên nụ cười, hay có khi là để răn đe, tìm sự hoàn thiện trong cuộc sống, chúng chỉ sống một thời rồi tự biến mất, nhường chỗ cho đoạn đời 'tiếng lóng' khác đến thay thế. Do đó, việc ghi chúng lại để đọc vui chơi hay phục vụ nghiên cứu văn học dân gian, chỉ có giá trị, khi ghi rõ định vị địa lý và thời gian.
Tỷ như Sài Gòn vào thập niên 60, thịnh hành một chùm tiếng lóng 'sức mấy' để thay nói bất lực hay chuyện không thể. Phổ biến đến nỗi, một nhạc sĩ đã chọn làm đề tài cho một bài hát đường phố "Sức mấy mà buồn, buồn chi bỏ qua đi Tám. "
Những câu chuyện thuộc loại tiếng lóng đó xuất hiện vào thời buổi Sài Gòn nhiễu nhương, quê hương chiến tranh buồn phiền; 'sức mấy' đã trở thành bút hiệu của một chuyên mục phiếm luận trên báo, sau đó một kỹ thuật gia sản xuất còi ôtô đã chế ra một điệu còi ôtô, bấm còi là kêu vang trên phố một dòng nhạc còi auto 9 nốt 'tính tính tè tè, tè ti tè ti té', làm cho đường phố càng náo loạn hơn.
Trước đó cũng từ bài ca Diễm Xưa của Trịnh Công Sơn mà sinh ra những tiếng lóng 'xưa rồi Diễm ơi', mỗi khi có ai lặp lại một đòi hỏi nào đó, mà người nghe muốn gạt phăng đi. Thời các vũ trường mới du nhập Sài Gòn như Mỹ Phụng, Baccara, Tháp Ngà, thì dân chơi gọi Tài-pán tức người điều phối nhóm vũ nữ, bằng tiếng lóng 'Cai gà', gọi cảnh sát là 'mã tà', vì police (cảnh sát) hay mang cái dùi cui, tiếng Tây là matraque, đọc trại thành 'mã tà'. Cũng từ thời thuộc địa, tiếng Tây chế ra tiếng lóng âm Việt rất nhiều như: 'gác dan' tức thuê người làm bảo vệ; tiếng Pháp gardien đọc trại ra thành gác-dan. Cũng như nói 'de cái đít' tức lùi xe arriere; tiền thưởng người phục vụ tiếng Pháp: pour-bois âm bồi gọi 'tiền boa', sau này chế ra là 'tiền bo'.
Cũng thời Pháp thuộc, Sài Gòn có nhiều cách nói mà đến nay không ai biết nguyên do. Tỷ như gọi ngân hàng là nhà băng, gọi sở bưu điện là nhà dây thép, mua tem dán bao thư gọi là 'con cò', còn nếu gọi 'ông cò' là chỉ cảnh sát trưởng mấy quận ở thành phố, gọi 'thầy cò' tức là các ông chữa morasse các tòa báo do chữ correcteur, nhưng nói 'cò mồi' là tay môi giới chạy việc, 'ăn tiền cò' thì cũng giống như 'tiền bo', nhưng chữ này chỉ dùng cho dịch vụ môi giới.
Thời kinh tế mới phát triển, đi xe auto gọi là đi 'xế hộp', đi xe ngựa gọi là đi 'auto hí', đến thời xe máy nổ ầm ào, đi xe đạp gọi là 'xe điếc', đi nghỉ mát Vũng Tàu gọi là 'đi Cấp', đi khiêu vũ gọi là 'đi bum', đi tán tỉnh chị em gọi là đi 'chim gái', đi ngắm chị em trên phố gọi là 'đi nghễ', gọi chỉ vàng là 'khoẻn', gọi quần là 'quởn', gọi bộ quần áo mới là 'đồ día-vía', đồng hồ gọi là đổng. Đi chơi bài tứ sắc các bà gọi là 'đi xòe', đi đánh chắn gọi là 'múa quạt', đi chơi bài mạt chược các ông gọi là 'đi xoa', đi uống bia gọi 'đi nhậu', đi hớt tóc gọi đi 'húi cua', xế hộp (xe hơi), xế nổ (xe gắn máy), xế điếc (xe đạp), xế đồng (xe tắc xi ..vì có đồng hồ tính tiền). Có một vài tiếng lóng từ Huế khoảng 1920 – 1950 du nhập Sài Gòn, đó là 'đi đầu dầu', tức các chàng trai ăn diện 'đi nghễ' với đầu trần không mũ nón, để cái mái tóc chải dầu brillantine láng cóng, dù nắng chảy mỡ. Tuyệt vời gọi là 'hết sẩy', quê mùa chậm chạp gọi là 'âm lịch', hách dịch tự cao gọi là 'chảnh'.
Tiền bạc gọi là 'địa', có thời trong giới bụi đời thường kháo câu 'khứa lão đa địa' có nghĩa ông khách già đó lắm tiền, không giữ lời hứa gọi là 'xù', 'xù tình', tức cặp bồ rồi tự bỏ ngang. Làm tiền ai gọi là 'bắt địa', ăn cắp là 'chôm chỉa', tương tự như 'nhám tay' hay 'cầm nhầm' những thứ không phải của mình.
Ghé qua làng sân khấu cải lương hát bội, người Sài Gòn gọi là làng 'hia mão', có một số tiếng lóng người ngoài làng có khi nghe không hiểu. Tỷ như gọi 'kép chầu', có nghĩa là đào kép đó tuy cũng tài sắc nhưng vì một lý do nào đó không được nhập biên chế gánh hát, đêm đêm họ cũng xách valyse trang phục phấn son đến ngồi café cóc trước rạp hay túc trực bên cánh gà, để đợi, ngộ nhỡ có đào kép chính nào trục trặc không đến rạp được, thì 'kép chầu' thay thế vào ngay. 'Kép chầu' phải thuần thục rất nhiều tuồng để đau đâu chữa đó.
Đào chính chuyên đóng vai sầu thảm gọi là 'đào thương', kép chính chuyên đóng vai hung tàn gọi là 'kép độc'. Có những tiếng lóng xuất phát từ hai nơi, một là cải lương rạp hát, hai là quanh các tòa soạn báo chí, đó là 'café à la… ghi' tức uống café thiếu ghi sổ… Vào làng báo mà tiếng lóng người Sài Gòn xưa gọi 'nhật trình'. Nếu thiếu tin lấy một tin cũ nhưng chưa đăng báo để đăng lấp chỗ trống, gọi là 'tin kho tiêu', các loại tin vớ vẩn dăm dòng từ quê ra tỉnh gọi là 'tin chó cán xe', tin quan trọng chạy tít lớn gọi là 'tin vơ-đét' vedette, nhặt từ tài liệu dài ra thành một bài gọn gọi là 'luộc bài', chắp nhiều chi tiết khác nguồn ra một bài gọi là 'xào bài', truyện tình cảm dấm dớ gọi là 'tiểu thuyết 3 xu', các tạp chí bình dân xoi mói đời tư gọi là 'báo lá cải'. Làng nhật trình kỵ nhất là loan tin thất thiệt, lóng gọi là 'tin phịa', nhưng trong 'tin phịa' còn có hai mảng chấp nhận được đó là loan tin thăm dò có chủ đích, lóng gọi là 'tin ballons' tức thả quả bóng thăm dò, hay tin thi đua nói dối chỉ được xuất hiện vào đầu tháng tư, gọi là 'tin Cá tháng Tư'.
Có đến bảy tiếng lóng để thay cho từ chết. Đó là 'tịch', 'hai năm mươi', 'mặc chemise gỗ', 'đi auto bươn', 'về chầu diêm chúa', 'đi buôn trái cây' hay 'vào nhị tỳ'; 'nhị tỳ' thay cho nghĩa địa và 'số dách' thay cho số một… đều ảnh hưởng từ ngôn ngữ minh họa theo người Hoa nhập cư.
Thời điểm truyện và phim kiếm hiệp của Kim Dung nói chung là chuyện Tầu thịnh hành, người Sài Gòn đã chế ra nhiều tiếng lóng, như ai dài dòng gọi là 'vòng vo Tam Quốc', ai nói chuyện phi hiện thực gọi là 'chuyện Tề Thiên', tính nóng nảy gọi là 'Trương Phi'. Một số tên nhân vật điển hình của Kim Dung được dùng để chỉ tính cách của một người nào đó. Tỷ như gọi ai là 'Nhạc Bất Quần' tức ám chỉ người ngụy quân tử, gọi là 'Đoàn Chính Thuần' tức ám chỉ đàn ông đa tình có nhiều vợ bé…
Sài Gòn là đất của dân nhập cư tứ xứ, nơi tha hương văn hóa bốn phương, nên ngôn ngữ càng thêm phong phú, trong đó tiếng lóng cũng 'ăn theo' mà ra đời.
Thời Mỹ đến thì một tiếng 'OK Salem', mà các trẻ bụi đời vừa chạy vừa la để xin ông Mỹ điếu thuốc. Thời gọi súng là 'sén' hay 'chó lửa', dân chơi miệt vườn gọi 'công tử Bạc Liêu' còn hiểu được, Sài Gòn xuất hiện những chữ 'dân chơi cầu ba cẳng' thì thật không biết do đâu? Có lẽ cầu ba cẳng có tên Pallicao, lêu nghêu 3 cẳng cao như dáng vẻ cowboy trong các phim bắn súng, nên mới gọi 'dân chơi cầu ba cẳng'? Đó cũng là lúc các tiếng lóng như 'dân xà bát', 'anh chị bự', 'main jouer' tay chơi ra đời, chạy xe đua gọi là 'anh hùng xa lộ', bị bắt gọi là 'tó', vào tù gọi là 'xộ khám', "nằm ấp" .vv. Bỏ học gọi là 'cúp cua', bỏ sở làm đi chơi gọi là 'thợ lặn', thi hỏng gọi là 'bảng gót'. Cũng do scandal chàng nhạc sĩ nổi tiếng kia dẫn em dâu là ca sĩ K. Ng. qua Nhà Bè ăn chè, để ngoại tình trong túp lều cỏ bị bắt, từ đó 'đi ăn chè' trở thành tiếng lóng về hành vi ngoại tình trốn ra ngoại ô.
Cũng có một số tiếng lóng do nói lái mà ra như 'chà đồ nhôm' tức chôm đồ nhà, 'chai hia' tức chia hai chai bia bên bàn nhậu, nó cùng họ với 'cưa đôi'. Lóng thời sự loại này có 'tô ba lây đi xô xích le' tức Tây ba lô đi xe xích lô. Trong tiếng lóng còn chất chứa ân tình. Họa sĩ chuyên vẽ tranh sơn mài đề tài lá hoa sen xuất thân xứ Ca Trù hay than 'buồn như chấu cắn', hay có người than phiền vì câu né tránh trách nhiệm với hai tiếng 'lu bu' để thất hứa, nay còn có người nhấn thêm 'lu xu bu' nại lý do không rõ ràng để trốn việc.
Để tạm kết thúc phần dẫn này, tôi muốn nhắc một số âm sắc Bắc Hà. Những âm sắc theo chân người Hà Nội vào Nam rồi trở thành tài sản chung của người Việt. Bắt quả tang thành 'quả tó', gọi chiếc xe Honda là 'con rim', gọi tờ giấy 100 USD là 'vé', đi ăn cơm bình dân gọi là 'cơm bụi', xuống phố dạo chơi gọi là 'đi bát phố', gọi người lẩm cẩm là 'dở hơi'… Nhưng lý thú nhất là nhờ cụ cố nhà văn Nguyễn Tuân mà Sài Gòn nay có một tiếng lóng hiện đại thay cho cụm từ đi ăn nhà hàng theo American style – tiền ai nấy trả. Đó là cụm lóng KAMA, ghép bốn chữ tắt của 'không – ai – mời – ai'. Đi KAMA phở một cái, tức cùng đi ăn phở mà không ai mời ai, món ăn cổ truyền nhưng ứng xử là thoải mái. Vào thời văn minh hiện đại, ngôn ngữ tiếng Anh trở thành phổ biến, giới trẻ đã chế ra một tiếng khá văn hoa, như chê một ai đó chảnh, các cô nói 'lemon question' tức chanh hỏi – chảnh - (mở ngoặc: hoặc nói chệch đi: lê-mông-wét-trần! )
Lê Văn Sâm
Tiếng lóng vốn là tiếng của…vỉa hè, chợ búa, là thứ tiếng của đám đông. Có lẽ chỉ các bậc tu hành mới không có (chứ đôi khi các ngài cũng dùng) tiếng lóng chuyên dùng. Thoạt kỳ thủy đó là tiếng của một giới nào đó (ăn chơi, mánh mung, lính tráng…), là con đẻ của một ngoại cảnh nào đó, không phải “tiếng lòng” tức không phải của nội tâm, càng không là ngôn ngữ của tư duy. Định nghĩa thật khó, cách giản tiện nhất là… nói tiếng lóng.
Sài Gòn là đất trẻ, nhiều dân tứ xứ (Trung Nam Bắc chen vai thích cánh với Hoa, Ấn, Tây, Mỹ v. v. Chủ yếu là thành phố công thương nghiệp tạo thành lớp cư dân nhiều sắc thái, cá tính, hơi “bốc”, trọng nghĩa khí mang tính giang hồ, thích sống thoáng, khoái hoạt. Hơn nhiều nơi khác, sức ma sát ở đây rất mạnh theo dạng chung của những thành phố cảng, càng mạnh càng bén nhạy trở thành đắc địa của tiếng lóng.
Dân chơi rủ nhau xuống xóm phải tránh bị bể ống khói, (hoặc uống café đen tiểu ra café sữa), muốn thế nhớ mặc áo mưa. Cái dụng cụ dùng cả lúc nắng đổ lửa này đang đắc thời đắc thế thì bỗng… thân bại danh liệt. Số là vào năm 1963, khi một vị đại sứ cạnh chính quyền Sài Gòn sang nhậm chức thì không chậm trễ, dân chơi lúc xuống xóm đã có ông đại sứ đi kèm! Chả là vì ngài đại sứ họ tên là Henri Cabot Lodge, trong đó cabote theo tiếng Pháp là… cái áo mưa thứ thật.
Dân ăn chơi không phải ai cũng sòng phẳng, nhiều kẻ hay tìm bạn bò mộng (khá giả) để bắt địa (kiếm tiền). Ông chủ quán cà phê La Pagode nếu giờ còn sống mà trí nhớ tốt liệu còn thắc mắc vì sao có mấy chàng sinh viên ngày nào cũng kéo đến kêu cà phê lát rồi bỏ đi, chỉ có một người ngồi lại…đọc sách cả tiếng đồng hồ. ? Không đâu thưa ông chủ quán, ngồi làm va li chờ bạn đi kiếm tiền đến …chuộc đó!
Nhớ hồi 56-57 gì đó, có cô ca sĩ nổi tiếng, một lần đi chơi… Nhà Bè (hồi ấy còn rất hoang vu ) hai người làm gì trong xe hơi chẳng biết nhưng bất ngờ bị tuần cảnh xét hỏi, bèn nói em với anh đi …ăn chè, dù tại Nhà Bè thuở đó mua cả chỉ vàng cũng không có thứ gọi là chè ấy. Thế là trong từ điển tiếng lóng, ăn chè ra đời, dùng làm gì thì cứ thử ắt biết.
Cũng khoảng đầu những năm 60, Sài Gòn có một nhà báo chuyên viết bài “nâng bi”, ca tụng đám tai to mặt bự, chủ bút một tờ báo do chính quyền tài trợ. Có lẽ vì mặc cảm bị anh em dè chừng, nhà báo bỗng nổi hứng viết một bài ngôn ngữ rõ là “nâng bi” nhưng bị ai đó đâm thọc mà thành ra “bóp dế”, mà là “mó dế ngựa” nên nhà báo bị xộ khám nhốt chung với du đãng. Đã mang thân tù tội, mà còn khoe mẽ nên mới bị bạn tù tẩn cho một trận mất trắng một mảng tóc. Từ đấy “mông Thẩm Thuý Hằng” (diễn viên điện ảnh) được dành riêng ám chỉ cho cái đầu ông cộng với “Hít tô phe” (hút thuốc phiện) mà anh có từ trước.
“Dân chơi cầu ba cẳng” khi đã ngồi với nhau thế nào cũng phải chăm phần chăm (100%). Số là thời VNCH đó, mỗi khi tình hình an ninh có vấn đề thường có lệnh cấm lính xuất trại, ngoài cổng treo tấm bảng “cấm trại 100%”. Không được ra phố, ở lại trại 100% thì…100% là hợp nhất! Dân nhậu thấy 100% vừa “đã” vừa hết mình với nhau thế là con số này sống mãi với thời gian. Gặp mồi lạ hoặc mồi chế biến cầu kỳ khoái khẩu, bèn kêu “bá chấy” hoặc “ve kêu”, chẳng ai hiểu thực nghĩa là gì nhưng từ đấy, học sinh bị điểm thấp hay bài khó, người lớn gặp chuyện vui, chuyện buồn “tàn canh bí đao” cũng xài luôn, tiếng lóng vốn là của đám đông mà. Nhậu nhiều lỡ mà lên dầu sống khẩn cấp, không kịp chạy ra ngoài bèn cứ ngồi tại chỗ cho chó ăn chè. Lúc ấy ai lỡ xài Đức Mã (đồng mark- ĐM) còn gọi là xài giấy lớn thì hãy coi chừng.
Sang tới giới công chức, thời xưa không có lệ họp bình bầu kiểm điểm, anh nào từ phòng sếp ra mặt hơi bị không vui thì biết anh ta được mời lên uống trà, hoặc… uống cà phê đen! Nếu thấy anh ta mệt mỏi hãy thông cảm vì trong phòng sếp anh đã phải làm đèn cầy (đứng ngay đơ) cho sếp “xát xà bông”.
Tiếng lóng sinh ra rất nhanh từ một giới nào đó và đời tiếng lóng cũng ngắn. Khi lính Mỹ ào ạt sang miền Nam, chập choạng tối là những cây than (Mỹ đen) hay lảng vảng và đám dắt mối chế ngay ra OK Salem làm ngôn ngữ tiếp thị dù hàng chẳng hề là thuốc lá Salem và dù ngôn ngữ bất đồng nhưng than nghe không hiểu chết liền!.
Sau ngày 30/4/75, người Sài Gòn làm quen - dĩ nhiên rất nhanh, tiếng lóng mà – những đánh quả, con phe, một vé hai vé, bôi trơn, mắt thứ hai tai thứ bảy, chèo (công an), khoái ăn sang (sáng ăn khoai). đã trở nên quen thuộc. Ngày nay có hai thứ không phải ngôn ngữ nhưng rất… biểu cảm: Cục gạch cắm miếng giấy và cái. . Phong bì, không biết có nên cho chúng vào từ điển tiếng lóng thông dụng không? Còn ngày hôm nay thì lô cốt là biểu tượng của một cách gọi là chống ngập của thành phố.
Nhắc đến tiếng lóng mà quên nhà văn quá cố Nguyên Hồng là một sự thất lễ. Trước năm 45 cụ đã lên đời loại tiếng vỉa hè này, đưa nó vào văn chương hẳn hoi. Tiểu thuyết “Bỉ vỏ”- nội cái nhan đề đã là một tiếng lóng (chỉ người đàn bà móc túi)- của cụ đọc thật “bá chấy”. Lần đầu tiên người đọc được nghe tiếng của giới giang hồ đất cảng Hải Phòng: Mõi (móc túi); kỳ bẽo (cờ bạc); sò quỷnh (người nhà quê); đông địa (nhiều tiền) v. v. Một dân móc túi thuộc loại trinh sát theo dõi một người nhà quê có vẻ có tiền, khi thấy ông ta vào quán cơm bụi, đã báo cho đàn anh biết một cách gần như công khai : “Sò quỷnh đông địa tranh vòm” (vào quán)! Trong khi chưa tìm ra ai khác nhà văn Nguyên Hồng, xin cứ tôn xưng cụ là …vua tiếng lóng. Vì nhân vật của cụ nói nguyên một câu bằng tiếng lóng, còn đám hậu sinh chỉ đệm được vài chữ là cùng.
Mãn Châu
Tỷ như Sài Gòn vào thập niên 60, thịnh hành một chùm tiếng lóng 'sức mấy' để thay nói bất lực hay chuyện không thể. Phổ biến đến nỗi, một nhạc sĩ đã chọn làm đề tài cho một bài hát đường phố "Sức mấy mà buồn, buồn chi bỏ qua đi Tám. "
Những câu chuyện thuộc loại tiếng lóng đó xuất hiện vào thời buổi Sài Gòn nhiễu nhương, quê hương chiến tranh buồn phiền; 'sức mấy' đã trở thành bút hiệu của một chuyên mục phiếm luận trên báo, sau đó một kỹ thuật gia sản xuất còi ôtô đã chế ra một điệu còi ôtô, bấm còi là kêu vang trên phố một dòng nhạc còi auto 9 nốt 'tính tính tè tè, tè ti tè ti té', làm cho đường phố càng náo loạn hơn.
Trước đó cũng từ bài ca Diễm Xưa của Trịnh Công Sơn mà sinh ra những tiếng lóng 'xưa rồi Diễm ơi', mỗi khi có ai lặp lại một đòi hỏi nào đó, mà người nghe muốn gạt phăng đi. Thời các vũ trường mới du nhập Sài Gòn như Mỹ Phụng, Baccara, Tháp Ngà, thì dân chơi gọi Tài-pán tức người điều phối nhóm vũ nữ, bằng tiếng lóng 'Cai gà', gọi cảnh sát là 'mã tà', vì police (cảnh sát) hay mang cái dùi cui, tiếng Tây là matraque, đọc trại thành 'mã tà'. Cũng từ thời thuộc địa, tiếng Tây chế ra tiếng lóng âm Việt rất nhiều như: 'gác dan' tức thuê người làm bảo vệ; tiếng Pháp gardien đọc trại ra thành gác-dan. Cũng như nói 'de cái đít' tức lùi xe arriere; tiền thưởng người phục vụ tiếng Pháp: pour-bois âm bồi gọi 'tiền boa', sau này chế ra là 'tiền bo'.
Cũng thời Pháp thuộc, Sài Gòn có nhiều cách nói mà đến nay không ai biết nguyên do. Tỷ như gọi ngân hàng là nhà băng, gọi sở bưu điện là nhà dây thép, mua tem dán bao thư gọi là 'con cò', còn nếu gọi 'ông cò' là chỉ cảnh sát trưởng mấy quận ở thành phố, gọi 'thầy cò' tức là các ông chữa morasse các tòa báo do chữ correcteur, nhưng nói 'cò mồi' là tay môi giới chạy việc, 'ăn tiền cò' thì cũng giống như 'tiền bo', nhưng chữ này chỉ dùng cho dịch vụ môi giới.
Thời kinh tế mới phát triển, đi xe auto gọi là đi 'xế hộp', đi xe ngựa gọi là đi 'auto hí', đến thời xe máy nổ ầm ào, đi xe đạp gọi là 'xe điếc', đi nghỉ mát Vũng Tàu gọi là 'đi Cấp', đi khiêu vũ gọi là 'đi bum', đi tán tỉnh chị em gọi là đi 'chim gái', đi ngắm chị em trên phố gọi là 'đi nghễ', gọi chỉ vàng là 'khoẻn', gọi quần là 'quởn', gọi bộ quần áo mới là 'đồ día-vía', đồng hồ gọi là đổng. Đi chơi bài tứ sắc các bà gọi là 'đi xòe', đi đánh chắn gọi là 'múa quạt', đi chơi bài mạt chược các ông gọi là 'đi xoa', đi uống bia gọi 'đi nhậu', đi hớt tóc gọi đi 'húi cua', xế hộp (xe hơi), xế nổ (xe gắn máy), xế điếc (xe đạp), xế đồng (xe tắc xi ..vì có đồng hồ tính tiền). Có một vài tiếng lóng từ Huế khoảng 1920 – 1950 du nhập Sài Gòn, đó là 'đi đầu dầu', tức các chàng trai ăn diện 'đi nghễ' với đầu trần không mũ nón, để cái mái tóc chải dầu brillantine láng cóng, dù nắng chảy mỡ. Tuyệt vời gọi là 'hết sẩy', quê mùa chậm chạp gọi là 'âm lịch', hách dịch tự cao gọi là 'chảnh'.
Tiền bạc gọi là 'địa', có thời trong giới bụi đời thường kháo câu 'khứa lão đa địa' có nghĩa ông khách già đó lắm tiền, không giữ lời hứa gọi là 'xù', 'xù tình', tức cặp bồ rồi tự bỏ ngang. Làm tiền ai gọi là 'bắt địa', ăn cắp là 'chôm chỉa', tương tự như 'nhám tay' hay 'cầm nhầm' những thứ không phải của mình.
Ghé qua làng sân khấu cải lương hát bội, người Sài Gòn gọi là làng 'hia mão', có một số tiếng lóng người ngoài làng có khi nghe không hiểu. Tỷ như gọi 'kép chầu', có nghĩa là đào kép đó tuy cũng tài sắc nhưng vì một lý do nào đó không được nhập biên chế gánh hát, đêm đêm họ cũng xách valyse trang phục phấn son đến ngồi café cóc trước rạp hay túc trực bên cánh gà, để đợi, ngộ nhỡ có đào kép chính nào trục trặc không đến rạp được, thì 'kép chầu' thay thế vào ngay. 'Kép chầu' phải thuần thục rất nhiều tuồng để đau đâu chữa đó.
Đào chính chuyên đóng vai sầu thảm gọi là 'đào thương', kép chính chuyên đóng vai hung tàn gọi là 'kép độc'. Có những tiếng lóng xuất phát từ hai nơi, một là cải lương rạp hát, hai là quanh các tòa soạn báo chí, đó là 'café à la… ghi' tức uống café thiếu ghi sổ… Vào làng báo mà tiếng lóng người Sài Gòn xưa gọi 'nhật trình'. Nếu thiếu tin lấy một tin cũ nhưng chưa đăng báo để đăng lấp chỗ trống, gọi là 'tin kho tiêu', các loại tin vớ vẩn dăm dòng từ quê ra tỉnh gọi là 'tin chó cán xe', tin quan trọng chạy tít lớn gọi là 'tin vơ-đét' vedette, nhặt từ tài liệu dài ra thành một bài gọn gọi là 'luộc bài', chắp nhiều chi tiết khác nguồn ra một bài gọi là 'xào bài', truyện tình cảm dấm dớ gọi là 'tiểu thuyết 3 xu', các tạp chí bình dân xoi mói đời tư gọi là 'báo lá cải'. Làng nhật trình kỵ nhất là loan tin thất thiệt, lóng gọi là 'tin phịa', nhưng trong 'tin phịa' còn có hai mảng chấp nhận được đó là loan tin thăm dò có chủ đích, lóng gọi là 'tin ballons' tức thả quả bóng thăm dò, hay tin thi đua nói dối chỉ được xuất hiện vào đầu tháng tư, gọi là 'tin Cá tháng Tư'.
Có đến bảy tiếng lóng để thay cho từ chết. Đó là 'tịch', 'hai năm mươi', 'mặc chemise gỗ', 'đi auto bươn', 'về chầu diêm chúa', 'đi buôn trái cây' hay 'vào nhị tỳ'; 'nhị tỳ' thay cho nghĩa địa và 'số dách' thay cho số một… đều ảnh hưởng từ ngôn ngữ minh họa theo người Hoa nhập cư.
Thời điểm truyện và phim kiếm hiệp của Kim Dung nói chung là chuyện Tầu thịnh hành, người Sài Gòn đã chế ra nhiều tiếng lóng, như ai dài dòng gọi là 'vòng vo Tam Quốc', ai nói chuyện phi hiện thực gọi là 'chuyện Tề Thiên', tính nóng nảy gọi là 'Trương Phi'. Một số tên nhân vật điển hình của Kim Dung được dùng để chỉ tính cách của một người nào đó. Tỷ như gọi ai là 'Nhạc Bất Quần' tức ám chỉ người ngụy quân tử, gọi là 'Đoàn Chính Thuần' tức ám chỉ đàn ông đa tình có nhiều vợ bé…
Sài Gòn là đất của dân nhập cư tứ xứ, nơi tha hương văn hóa bốn phương, nên ngôn ngữ càng thêm phong phú, trong đó tiếng lóng cũng 'ăn theo' mà ra đời.
Thời Mỹ đến thì một tiếng 'OK Salem', mà các trẻ bụi đời vừa chạy vừa la để xin ông Mỹ điếu thuốc. Thời gọi súng là 'sén' hay 'chó lửa', dân chơi miệt vườn gọi 'công tử Bạc Liêu' còn hiểu được, Sài Gòn xuất hiện những chữ 'dân chơi cầu ba cẳng' thì thật không biết do đâu? Có lẽ cầu ba cẳng có tên Pallicao, lêu nghêu 3 cẳng cao như dáng vẻ cowboy trong các phim bắn súng, nên mới gọi 'dân chơi cầu ba cẳng'? Đó cũng là lúc các tiếng lóng như 'dân xà bát', 'anh chị bự', 'main jouer' tay chơi ra đời, chạy xe đua gọi là 'anh hùng xa lộ', bị bắt gọi là 'tó', vào tù gọi là 'xộ khám', "nằm ấp" .vv. Bỏ học gọi là 'cúp cua', bỏ sở làm đi chơi gọi là 'thợ lặn', thi hỏng gọi là 'bảng gót'. Cũng do scandal chàng nhạc sĩ nổi tiếng kia dẫn em dâu là ca sĩ K. Ng. qua Nhà Bè ăn chè, để ngoại tình trong túp lều cỏ bị bắt, từ đó 'đi ăn chè' trở thành tiếng lóng về hành vi ngoại tình trốn ra ngoại ô.
Cũng có một số tiếng lóng do nói lái mà ra như 'chà đồ nhôm' tức chôm đồ nhà, 'chai hia' tức chia hai chai bia bên bàn nhậu, nó cùng họ với 'cưa đôi'. Lóng thời sự loại này có 'tô ba lây đi xô xích le' tức Tây ba lô đi xe xích lô. Trong tiếng lóng còn chất chứa ân tình. Họa sĩ chuyên vẽ tranh sơn mài đề tài lá hoa sen xuất thân xứ Ca Trù hay than 'buồn như chấu cắn', hay có người than phiền vì câu né tránh trách nhiệm với hai tiếng 'lu bu' để thất hứa, nay còn có người nhấn thêm 'lu xu bu' nại lý do không rõ ràng để trốn việc.
Để tạm kết thúc phần dẫn này, tôi muốn nhắc một số âm sắc Bắc Hà. Những âm sắc theo chân người Hà Nội vào Nam rồi trở thành tài sản chung của người Việt. Bắt quả tang thành 'quả tó', gọi chiếc xe Honda là 'con rim', gọi tờ giấy 100 USD là 'vé', đi ăn cơm bình dân gọi là 'cơm bụi', xuống phố dạo chơi gọi là 'đi bát phố', gọi người lẩm cẩm là 'dở hơi'… Nhưng lý thú nhất là nhờ cụ cố nhà văn Nguyễn Tuân mà Sài Gòn nay có một tiếng lóng hiện đại thay cho cụm từ đi ăn nhà hàng theo American style – tiền ai nấy trả. Đó là cụm lóng KAMA, ghép bốn chữ tắt của 'không – ai – mời – ai'. Đi KAMA phở một cái, tức cùng đi ăn phở mà không ai mời ai, món ăn cổ truyền nhưng ứng xử là thoải mái. Vào thời văn minh hiện đại, ngôn ngữ tiếng Anh trở thành phổ biến, giới trẻ đã chế ra một tiếng khá văn hoa, như chê một ai đó chảnh, các cô nói 'lemon question' tức chanh hỏi – chảnh - (mở ngoặc: hoặc nói chệch đi: lê-mông-wét-trần! )
Lê Văn Sâm
Tiếng lóng vốn là tiếng của…vỉa hè, chợ búa, là thứ tiếng của đám đông. Có lẽ chỉ các bậc tu hành mới không có (chứ đôi khi các ngài cũng dùng) tiếng lóng chuyên dùng. Thoạt kỳ thủy đó là tiếng của một giới nào đó (ăn chơi, mánh mung, lính tráng…), là con đẻ của một ngoại cảnh nào đó, không phải “tiếng lòng” tức không phải của nội tâm, càng không là ngôn ngữ của tư duy. Định nghĩa thật khó, cách giản tiện nhất là… nói tiếng lóng.
Sài Gòn là đất trẻ, nhiều dân tứ xứ (Trung Nam Bắc chen vai thích cánh với Hoa, Ấn, Tây, Mỹ v. v. Chủ yếu là thành phố công thương nghiệp tạo thành lớp cư dân nhiều sắc thái, cá tính, hơi “bốc”, trọng nghĩa khí mang tính giang hồ, thích sống thoáng, khoái hoạt. Hơn nhiều nơi khác, sức ma sát ở đây rất mạnh theo dạng chung của những thành phố cảng, càng mạnh càng bén nhạy trở thành đắc địa của tiếng lóng.
Dân chơi rủ nhau xuống xóm phải tránh bị bể ống khói, (hoặc uống café đen tiểu ra café sữa), muốn thế nhớ mặc áo mưa. Cái dụng cụ dùng cả lúc nắng đổ lửa này đang đắc thời đắc thế thì bỗng… thân bại danh liệt. Số là vào năm 1963, khi một vị đại sứ cạnh chính quyền Sài Gòn sang nhậm chức thì không chậm trễ, dân chơi lúc xuống xóm đã có ông đại sứ đi kèm! Chả là vì ngài đại sứ họ tên là Henri Cabot Lodge, trong đó cabote theo tiếng Pháp là… cái áo mưa thứ thật.
Dân ăn chơi không phải ai cũng sòng phẳng, nhiều kẻ hay tìm bạn bò mộng (khá giả) để bắt địa (kiếm tiền). Ông chủ quán cà phê La Pagode nếu giờ còn sống mà trí nhớ tốt liệu còn thắc mắc vì sao có mấy chàng sinh viên ngày nào cũng kéo đến kêu cà phê lát rồi bỏ đi, chỉ có một người ngồi lại…đọc sách cả tiếng đồng hồ. ? Không đâu thưa ông chủ quán, ngồi làm va li chờ bạn đi kiếm tiền đến …chuộc đó!
Nhớ hồi 56-57 gì đó, có cô ca sĩ nổi tiếng, một lần đi chơi… Nhà Bè (hồi ấy còn rất hoang vu ) hai người làm gì trong xe hơi chẳng biết nhưng bất ngờ bị tuần cảnh xét hỏi, bèn nói em với anh đi …ăn chè, dù tại Nhà Bè thuở đó mua cả chỉ vàng cũng không có thứ gọi là chè ấy. Thế là trong từ điển tiếng lóng, ăn chè ra đời, dùng làm gì thì cứ thử ắt biết.
Cũng khoảng đầu những năm 60, Sài Gòn có một nhà báo chuyên viết bài “nâng bi”, ca tụng đám tai to mặt bự, chủ bút một tờ báo do chính quyền tài trợ. Có lẽ vì mặc cảm bị anh em dè chừng, nhà báo bỗng nổi hứng viết một bài ngôn ngữ rõ là “nâng bi” nhưng bị ai đó đâm thọc mà thành ra “bóp dế”, mà là “mó dế ngựa” nên nhà báo bị xộ khám nhốt chung với du đãng. Đã mang thân tù tội, mà còn khoe mẽ nên mới bị bạn tù tẩn cho một trận mất trắng một mảng tóc. Từ đấy “mông Thẩm Thuý Hằng” (diễn viên điện ảnh) được dành riêng ám chỉ cho cái đầu ông cộng với “Hít tô phe” (hút thuốc phiện) mà anh có từ trước.
“Dân chơi cầu ba cẳng” khi đã ngồi với nhau thế nào cũng phải chăm phần chăm (100%). Số là thời VNCH đó, mỗi khi tình hình an ninh có vấn đề thường có lệnh cấm lính xuất trại, ngoài cổng treo tấm bảng “cấm trại 100%”. Không được ra phố, ở lại trại 100% thì…100% là hợp nhất! Dân nhậu thấy 100% vừa “đã” vừa hết mình với nhau thế là con số này sống mãi với thời gian. Gặp mồi lạ hoặc mồi chế biến cầu kỳ khoái khẩu, bèn kêu “bá chấy” hoặc “ve kêu”, chẳng ai hiểu thực nghĩa là gì nhưng từ đấy, học sinh bị điểm thấp hay bài khó, người lớn gặp chuyện vui, chuyện buồn “tàn canh bí đao” cũng xài luôn, tiếng lóng vốn là của đám đông mà. Nhậu nhiều lỡ mà lên dầu sống khẩn cấp, không kịp chạy ra ngoài bèn cứ ngồi tại chỗ cho chó ăn chè. Lúc ấy ai lỡ xài Đức Mã (đồng mark- ĐM) còn gọi là xài giấy lớn thì hãy coi chừng.
Sang tới giới công chức, thời xưa không có lệ họp bình bầu kiểm điểm, anh nào từ phòng sếp ra mặt hơi bị không vui thì biết anh ta được mời lên uống trà, hoặc… uống cà phê đen! Nếu thấy anh ta mệt mỏi hãy thông cảm vì trong phòng sếp anh đã phải làm đèn cầy (đứng ngay đơ) cho sếp “xát xà bông”.
Tiếng lóng sinh ra rất nhanh từ một giới nào đó và đời tiếng lóng cũng ngắn. Khi lính Mỹ ào ạt sang miền Nam, chập choạng tối là những cây than (Mỹ đen) hay lảng vảng và đám dắt mối chế ngay ra OK Salem làm ngôn ngữ tiếp thị dù hàng chẳng hề là thuốc lá Salem và dù ngôn ngữ bất đồng nhưng than nghe không hiểu chết liền!.
Sau ngày 30/4/75, người Sài Gòn làm quen - dĩ nhiên rất nhanh, tiếng lóng mà – những đánh quả, con phe, một vé hai vé, bôi trơn, mắt thứ hai tai thứ bảy, chèo (công an), khoái ăn sang (sáng ăn khoai). đã trở nên quen thuộc. Ngày nay có hai thứ không phải ngôn ngữ nhưng rất… biểu cảm: Cục gạch cắm miếng giấy và cái. . Phong bì, không biết có nên cho chúng vào từ điển tiếng lóng thông dụng không? Còn ngày hôm nay thì lô cốt là biểu tượng của một cách gọi là chống ngập của thành phố.
Nhắc đến tiếng lóng mà quên nhà văn quá cố Nguyên Hồng là một sự thất lễ. Trước năm 45 cụ đã lên đời loại tiếng vỉa hè này, đưa nó vào văn chương hẳn hoi. Tiểu thuyết “Bỉ vỏ”- nội cái nhan đề đã là một tiếng lóng (chỉ người đàn bà móc túi)- của cụ đọc thật “bá chấy”. Lần đầu tiên người đọc được nghe tiếng của giới giang hồ đất cảng Hải Phòng: Mõi (móc túi); kỳ bẽo (cờ bạc); sò quỷnh (người nhà quê); đông địa (nhiều tiền) v. v. Một dân móc túi thuộc loại trinh sát theo dõi một người nhà quê có vẻ có tiền, khi thấy ông ta vào quán cơm bụi, đã báo cho đàn anh biết một cách gần như công khai : “Sò quỷnh đông địa tranh vòm” (vào quán)! Trong khi chưa tìm ra ai khác nhà văn Nguyên Hồng, xin cứ tôn xưng cụ là …vua tiếng lóng. Vì nhân vật của cụ nói nguyên một câu bằng tiếng lóng, còn đám hậu sinh chỉ đệm được vài chữ là cùng.
Mãn Châu
No comments:
Post a Comment