Tuesday, May 10, 2011

Bà Trần Lệ Xuân, qủa phụ Cố Vấn Ngô Đình Nhu

Bà Trần Lệ Xuân
Quả phụ Cố vấn Ngô Đình Nhu
Bà Trần Lệ Xuân, quả phụ Cố vấn Ngô Đình Nhu vừa qua đời tại Roma, Italia .
Time Magazine số mới nhất cũng đi vài cột báo nói về Bà Ngô Đình Nhu. Từ trước đến nay, báo chí Mỹ thường trổi chung một điệu bình phẩm nhận định về Bà Nhu nhiều phần sai lệch, thiếu phần thiện cảm. Ông Lê Châu Lộc, nguyên Thượng Nghị Sĩ Quốc Hội (liên danh với Luật sư Nguyễn Văn Huyền, nguyên Phó Tổng Thống sau cùng của VNCH), cựu sĩ quan tùy viên của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đã thuật lại thành thật đúng đắn những đặc tính của Bà Ngô Đình Nhu . Hy vọng nhị vị Phó Đề Đốc Diệp Quang Thủy và Hồ Văn Kỳ Thoại , cựu sĩ quan tùy viên Tổng Thống Diệm, phát biểu về Bà Ngô Đình Nhu để trả lại sự thật cho lịch sử và góp một cánh hoa tiễn hương linh một nhân vật phụ nữ tài danh mang sô phận nghiệt ngả.
Paul Vân

Cựu Nghị Sĩ Lê Châu Lộc

Nói về bà Ngô Đình Nhu


NHÂN SỰ RA ĐI CỦA BÀ NGÔ ĐÌNH NHU, NHŨ DANH TRẦN LỆ XUÂN, MỜI CÁC THÂN HỮU ĐỌC CÁC BÀI VIẾT VỀ BÀ, VÀ QUA ĐÓ SẼ THẤY RÕ NHƯ DỐT NÁT, GIAN TRÁ, NÔNG CẠN HAY NGÂY NGÔ TRONG CÁC BÀI VIẾT CỦA PETER BRUSH (RISE AND FALL OF THE DRAGON LADY/ THĂNG TRẦM CỦA “RỒNG PHU NHÂN” TRẦN LỆ XUÂN) HAY CỦA JOSEPH R. GREGORY (MADAME NHU, VIETNAM WAR LIGHTNING ROD, DIES/BÀ NHU, CỘT THU LÔI VIỆT NAM, ĐÃ CHẾT) QUA CÁC LINKS SAU ĐÂY 
1)THĂNG TRẦM CỦA “RỒNG PHU NHÂN” TRẦN LỆ XUÂN

http://kbchaingoai.wordpress.com/2011/04/25/thang-tr%E1%BA%A7m-c%E1%BB%A7a-%E2%80%9Cr%E1%BB%93ng-phu-nhan%E2%80%9D-tr%E1%BA%A7n-l%E1%BB%87-xuan/


RISE AND FALL OF THE DRAGON LADY BY PETER BRUSH

http://www.historynet.com/rise-and-fall-of-the-dragon-lady.htm/print/

http://www.historynet.com/rise-and-fall-of-the-dragon-lady.htm



2) BÀ NHU, CỘT THU LÔI VIỆT NAM, ĐÃ CHẾT

http://184.73.254.72/modules.php?name=News&file=article&sid=8427

http://ongvove.wordpress.com/2011/04/28/ba-nhu-c%E1%BB%99t-thu-loi-vi%E1%BB%87t-nam-da-ch%E1%BA%BFt/


MADAME NHU, VIETNAM WAR LIGHTNING ROD BY JOSEPH R. GREGORY

http://www.nytimes.com/2011/04/27/world/asia/27nhu.html


Ghi chú: Quý thân ưữu có thể đọc các bài viết dưới đây trong attachments.
Nhớ Về Ông Bà Ngô Đình Nhu

Trần Lệ Xuân cùng chồng Ngô Đình Nhu, ảnh năm 1962
Tôi mới nhận được một giấy mời tham dự Lễ Tưởng niệm cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm vào ngày 02/11. Tôi không một chút suy nghĩ và đã nhận lời. Lần đầu tiên nhận một giấy mời như thế kể từ khi ông chết. Cám ơn ban tổ chức.
Tôi nhìn thấy tên người tổ chức: ông Lê Châu Lộc. Người đã có thời hãnh diện vì đã được sống bên cạnh vị Tổng Thống ấy. Từ Lê Châu Lộc, tôi liên tưởng đến những người từng có cơ hội gần gũi với Tổng Thống Ngô Đình Diệm như Đỗ Thọ, Nguyễn Hữu Duệ, Cao Xuân Vỹ, Tôn Thất Thiện, Cụ Quách Tòng Đức, Huỳnh Văn Lang, Trần Kim Tuyến Lâm Lễ Trinh, cụ Đoàn Thêm, Võ Văn Hải, Nguyễn Thành Cung, Nguyễn Cửu Đắc, Nguyễn Văn Minh và v.v…
Ít ai có lời phỉ báng, nặng nhẹ, nếu không nói là một lòng, một dạ. Hình như ít có vị lãnh đạo nào, dù đạo hay đời mà khi chết đi để lại thương nhớ và niềm kính trọng nơi những kẻ dưới quyền đến như ông? Hồ Chí Minh chăng? Không. Nào ai khác không có. Nhớ những người này, những kẻ một lòng, một dạ với ông thì đồng thời tôi cũng muốn không nhớ tới Đỗ Mậu, một số tướng lãnh hay Thích Trí Quang và Cabot Lodge. Nói chi đến thứ viết như Nguyễn Đắc Xuân, viết bẩn, bôi bẩn.


Khu biệt thự Trần Lệ Xuân (2 Yết Kiêu, Đà Lạt) lộng lẫy rộng trên 13 ngàn mét vuông
vừa được nâng cấp trở thành Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV. Nơi lưu giữ hơn 30 ngàn mộc bản triều Nguyễn.
Tôi sẽ đến đó với một tấm lòng thanh thản.
Bởi vì tôi đi đến đó không phải để vinh danh một vị tổng thống của nền đệ nhất cộng hoà. Đến đó không phải để tôn sùng, không phải để thần thánh hóa như người ta mỉa mai. Đến đó không phải vì ngu muội.vì thiếu hiểu biết lịch sử. Như người ta chửi. Cũng chẳng một chút mưu cầu gì. Bất cứ mưu cầu gì. Và có thể, tất cả những người đến đó, như tôi, đều chẳng có mưu mô, mưu cầu nào cả. Mưu cầu dựng lại đảng Cần lao nhân vị? Buồn cười. Đừng ai gán ghép gì cả. Có người vui mừng vì những cái chết đó. Có người buồn, thương tiếc. Người vui thì được, tại sao lại khó chịu khi người khác không vui, khi người khác buồn? Hãy cứ để cho người vui được vui và người buồn được phép buồn.
Tôi đến với một chút lòng. Chỉ có thế. Đến vì nghĩ rằng những năm tháng ấy, mặc dù chẳng phải là một xã hội toàn hảo. Mặc dù xã hội ấy chập chững khập khễnh giữa dân chủ, phong kiến, tự do và độc đoán. Tôi tránh chữ độc tài bởi vì nó nhiều mức độ quá. Và tôi vẫn tự hào với mình, với bạn bè mình, đó là những năm tháng đẹp nhất quãng đời tuổi trẻ của tôi, của chúng tôi. Tôi đã hỏi các bạn bè tôi, ít ai nói khác.
Hỡi những ai, những loài chim ri, chim sẻ đã từng là Chu Văn An, Petrus Ký, Gia Long, Trưng Vương. Nói lên đi, đã có lần nào các anh bị tù, bị bịt mồm, bịt miệng một cách bất công, bị đàn áp một cách vô lý… Và các anh, các chị đã có lúc nào cảm thấy bị ngộp thở, bị đè nén trong thời gian đó vì lý do tôn giáo? Do ai và người nào, bày tôi nào mà chúng ta bị đối xử như thế? Hãy tìm cho tôi một thời gian nào của mảnh đất miền Nam trong 20 năm và nay nửa thế kỷ đã qua những ngày tháng tốt đẹp hơn những ngày tháng ấy?
Tôi nhắc lại nơi đây một nhận xét của Võ Phiến về giai đoạn 1954-1963 như sau:
“Trong khung cảnh thái bình, nước nhà vừa có chủ quyền …, chính phủ đang được tín nhiệm, trong không khí vui vẻ xây dựng một miền đất tự do, văn học nghệ thuật đã phát triển nhanh chóng mạnh mẽ. Tình hình văn học trong giai đoạn mở đầu miền Nam phản ánh cái phấn khởi, tin tưởng, tích cực….Sang giai đoạn sau cả văn nhân lẫn văn chương đều hóa ra phong trần…
(Trích Văn học miền Nam tổng quan, Võ Phiến, trang 207)
Trước 1954 và sau 1963, chúng ta đã sống thế nào? Trước 1954, nhiều nỗi bấp bênh. Tương lai vô định. Sau 1963, tình thế rối beng, tuổi trẻ chán ngán.
Trong khi thời gian từ 1954, miền Nam như một miền đất hứa cho nhiều người. Chúng ta đã đến đó và góp bàn tay, góp trí óc chúng ta xây dựng mảnh đất miền Nam ấy. Hơn thế nữa, chúng ta đã góp xương máu để giữ nó, mặc dù bây giờ chúng ta đã mất. Mất tất cả? Dù thế, chúng ta đã để lại một di sản văn hóa, tinh thần tự do và một thể chế hành chánh tương đối quy mô và hữu hiệu.
Và chỉ khi thật sự mất miền Nam, chỉ khi chúng ta không còn gì… chúng ta mới có dịp so sánh và nhìn lại. Chúng ta mới thực sự hiểu và đánh giá đúng mức cái gia tài văn học, văn hoá, giáo dục của miền Nam. Nhiều khi, chúng ta đã có lúc đòi cái nọ, cái kia mà thực sự cái chúng ta đòi đã nằm sẵn trong túi áo?
Nghĩ lại thời đó, chúng ta vẫn thong dong tuổi trẻ? Chúng ta đã được đào tạo đến nơi đến chốn? Trường y, trường dược, trường kỹ sư Phú Thọ, trường Quốc Gia Hành Chánh với các đại học Sài Gòn, Đà Lạt, Huế.
Chúng ta từ đâu mà lớn lên và trở thành những chuyên viên hàng đầu của miền Nam Việt Nam? Hãy cố nhớ lại xem. Hãy dùng tất cả cái tấm lòng để nhớ đến. Nơi ấy vẫn là một niềm Nam đáng sống với những ngày tháng tuổi trẻ được lớn lên và trưởng thành. Theo cụ Đoàn Thêm, dự án trung tâm Phú Thọ tưởng không thành vì thiếu giáo sư. Ông Diệm bảo:
“Có nhiều học nhiều, có ít học ít, đợi đến bao giờ và cứ cho phép mở.
Viện Đại học Đàlạt được thành lập dễ dàng với sự nâng đỡ đặc biệt của ông.
Ông trợ cấp nhiều cho Đại học Huế, tặng tiền dịch sách để tiến tới một cơ quan dịch thuật và khuyến khích lập một viện Hán học.
Ông hoan nghênh sự cố gắng chấn hưng Nho giáo của Hội Khổng Học và dặn Bộ giáo dục tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm Khổng tử.
Như sự trưởng thành của quân đội, từ những tiểu đoàn bộ binh hay khinh binh thời Bảo Đại tới một lực lượng hùng hậu với đủ các quân chủng và binh chủng, là kết quả nỗ lực của mọi cấp chuyên trách Việt Nam với sự giúp đỡ của các cố vấn Hoa Kỳ”
Nay thì đã mấy lần từ ngày 01/11/1963? Hơn 40 năm rồi. Có điều gì cần phải nói nữa không? Có nhiều điều chúng ta không nên nhớ đến nữa. Forgive and forget. Có nhiều điều nên quên để di dưỡng tuổi già, để nhìn về thế hệ con cháu chúng ta.
Độc giả nghĩ rằng tôi sẽ viết về ông Diệm. Thưa không. Viết về ông, nhiều người đã sống bên cạnh ông viết đủ và họ có đủ tư cách để viết về ông hơn tôi gấp bội.
Cho nên, bài này tôi sẽ viết về vợ chồng ông Nhu, bị hiểu lầm và bị ghét nhất là bà Ngô Đình Nhu. Nhiều người không ưa bà, ghét là đằng khác, khinh nữa. Nhiều người bênh ông Diệm, thương mến ông, nhưng vẫn dè dặt khi nói về ông Nhu, bà Nhu. Tôi biết rõ. Vì chính tôi cũng chẳng thể nào quên được câu nói phạm thượng và xấc xược của bà khi Hoà thượng Quảng Đức tự thiêu.
Nhưng đã trót quý mến ai rồi thì khó mà nghĩ khác được. Trước đây, tôi đã trót quý mến Nam Phương Hoàng Hậu.Và niềm kính trọng vẫn còn đó. Nay thì đến lượt ông bà Nhu cũng vậy thôi.
Nhớ lại, khi ấy, tôi còn rất trẻ. Tôi đã đôi lần theo anh cả tôi “đi học” một người là ông Ngô Đình Nhu. Không biết bằng cách nào, do ai nói mà tôi vẫn nhớ đinh ninh đó là những lớp học về xã hội. Sau này, đọc sách vở thì tôi hiểu đó là những khóa huấn luyện cho thanh niên hồi đó.
Đầu óc làm chính trị, nhìn xa nên nhóm ông Nhu đã mở ra các lớp huấn luyện này để chuẩn bị khi thời cơ đến. Thành phần những người theo học, căn cứ vào anh cả tôi thì họ phải có trình độ tương đương tú tài hoặc hơn thế nữa. Chắc phần lớn là người theo đạo Thiên Chúa giáo. Các buổi học đều diễn ra vào buổi chiều thứ năm, tại 40 phố Nhà Chung Hà Nội. Tại sao tôi lại nhớ là chiều thứ năm? Bởi vì tôi theo học tại trường dòng Chúa Cứu thế nên ngày thứ năm là ngày “sortie”, chúng tôi được nghỉ đi chơi hoặc về thăm gia đình. Tôi về thăm chỗ anh tôi nên bắt buộc phải đi theo anh tôi “theo học” lớp Xã hội. Có lẽ, tôi là học viên trẻ tuổi nhất ngồi hàng ghế cuối. Phòng học chỉ có một cửa lớn ra vào nên mọi người phải đi qua cửa này để vào phòng học.
Trong những dịp này, tôi được nhìn thấy ông Ngô Đình Nhu. Dưới mắt một đứa bé con thì anh tôi là người tài giỏi hơn người. Thật vậy, vào năm 1953, anh tôi đã thi xong Phần 1, tiến sĩ triết học ở Bỉ và 1955 về nước tình nguyện ra miền Bắc phục vụ. Vậy mà ông này, cái ông dáng người cao gầy, da nám xám, mái tóc rậm đen lại còn là thầy dạy anh tôi. Ông phải giỏi biết chừng nào. Nhìn ông mà trong lòng chỉ biết nể phục.
Ông Nhu luôn luôn mặc loại áo bốn túi bỏ ra ngoài. Áo bốn túi mầu nâu hồng nhạt.
Ăn mặc khá dản dị. Cười nhếch mép và nhẹ nhàng khi đi qua những người đứng trước cửa. Ít nói và điềm đạm.
Mặc dù chỉ là ký ức của một đứa trẻ con, tôi nghĩ rằng nay nhắc lại có thể giúp thêm sử liệu về những hoạt động của ông Nhu khi còn ở Hà Nội. Việc ông lấy bà Nhu cũng đã gây một dư luận khá ồn ào lúc bấy giờ ở Hà Nội. Vì một lẽ dản dị là cả hai ông bà đều thuộc những gia đình danh gia vọng tộc.
Nhưng khoảng cách tuổi khá lớn giữa hai ông bà cũng là cớ sự cho những lời đồn thổi sau này kể từ sau 1963.
Đối với tôi, sau 1963, cái gì cũng trở thành đầu đề để đàm tiếu gia đình ông Nhu. Có cần nhắc lại những điều viết bất xứng về bà Nhu của những người như Hoàng Trọng Miên, Nguyễn Đắc Xuân không?
Xin được nhắc lại một lần cuối. Trong bài ký: “Theo Đoàn Sinh viên Huế, tham quan con đường ‘gặt bão’ của anh em Ngô Đình Diệm ở Sài Gòn tháng 11–63”. http://www.giaodiem.com/doithoaiIII/ndx_evilroute.htm
Ông Xuân đã viết với lối viết quen thuộc, nửa hư, nửa thực như sau:
Suốt tuần qua báo chí Sài Gòn đăng nhiều phóng sự điều tra về những bí mật trong dinh Gia Long, đặc biệt là những hình ảnh sex mà họ gán cho là của bà Trần Thị Lệ Xuân – vợ cố vấn Ngô Đình Nhu – người tự mệnh danh là đệ nhất phu nhân VNCH. Do đó khi được vào tham quan, chúng tôi đến ngay phòng ngủ của bà Lệ Xuân phía gần đường Pasteur. Cái phòng này bị dân chúng phá tanh banh. Các sĩ quan chỉ cho chúng tôi hệ thống kính soi được lắp kính bốn mặt tường và họ giải thích rằng bà Lệ Xuân lắp hệ thống kính như thế để mọi hoạt động thân thể riêng tư của bà trong phòng nầy bà có thể ngắm được từ nhiều phía. Và người ta cũng hướng dẫn cho chúng tôi rằng phòng riêng của Tổng Thống Diệm gần phòng riêng của cô em dâu. Ông Ngô Đình Nhu muốn vào phòng riêng của của vợ phải đi qua phòng của anh trai ông. Không rõ thực hư như thế nào, cho đến bây giờ, tôi vẫn chưa hiểu có đúng như thế không và tại sao như vậy?
Và Nguyễn Đắc Xuân viết tiếp:
Những thành viên trong đoàn sinh viên Huế đi tham quan ngày ấy, hiện nay vẫn còn ở Huế khá đông như nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, bác sĩ Phạm Thị Xuân Quế, anh Lý Văn Nghiên, ở Đà nẵng có bác sĩ Lê Quang Tái, ở TP Hồ Chí Minh có Tiến sĩ Thái Thị Ngọc Dư, nhà giáo Nguyễn Đình Hiển, ở Đức có Tiến sĩ Thái Thị Kim Lan, ở Pháp có Lê Thị Thảo; ở Mỹ có Nguyễn Thị Kim Tri, ở Úc có Nguyễn Thị Kim Xuyến v.v… Ba thành viên chủ chốt trong đoàn nay không còn nữa là Nhà thơ Trần Quang Long (ra trường năm 1965), tham gia kháng chiến và hy sinh ở chiến trường Tây Ninh năm 1968; Nguyễn Thiết đang học năm thứ ba thì thoát ly, phụ trách Thanh niên Thành ủy Huế, hy sinh năm 1968; Vĩnh Kha, về sau làm Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Huế, lãnh đạo sinh viên phát động các cuộc đấu tranh chống các chính quyền Diệm mà không có Diệm. Kha mất vì bệnh gan vào giữa những năm Tám mươi.
Theo ông Ngô Bảo (nhà thầu tốt nghiệp trường Mỹ thuật bên Pháp) có trách nhiệm trang trí tư dinh của Tổng thống Ngô Đình Diệm cho người viết hay: phòng ăn dinh Gia Long được trang trí với tranh sơn mài Thành Lễ. Riêng phòng bà Nhu chỉ treo độc nhất một bức anh vẽ bán thân bà Nhu, do hoạ sĩ Nguyễn Khoa Toàn vẽ (1). Bức tranh vẽ bà Nhu mặc áo cánh lụa, có hơi rõ nét nổi lên phần ngực phía trong làn áo. Chỉ có vậy. Người viết hỏi thêm, có thấy các bức tường chung quanh phòng bà Nhu đều có gương phản chiếu không? Ông Ngô Bảo cho biết: Làm gì có chuyện đó. Tường thường như mọi bức tường nhà khác.
Chi tiết mà ông Ngô Bảo, nay đã 78 tuổi, cho biết một lần nữa chứng tỏ chắc chắn rằng Nguyễn Đắc Xuân đã bịa đặt, viết lếu láo và đám nam nữ sinh viên cùng tham dự buổi tham quan dinh Gia Long đã im lặng. Im lặng ở đây được coi là đồng loã.
Dù chỉ nhìn thoáng qua, ấn tượng về ông còn được ghi nhớ mãi trong tôi. Nhưng ấn tượng đó còn được ghi khắc thêm là trong số học trò của ông Nhu có linh mục Phước. Lm Phước kể lại cho tôi là có dịp đi Đà lạt sau này, có đến thăm thày cũ. Ông đã hết lời nói về gia đình thày của mình. Ông Nhu thì học cao, hiểu rộng, tài trí hơn người. Ai ai cũng phải nhìn nhận như vậy. Cụ Đoàn Thêm nhận xét: “Về phương diện trí thức, trình độ của ông Nhu rất cao. Học vấn cổ điển và nhân bản của ông rộng và vững. Qua lời nói ề à, kẻ chú ý có thể bắt gặp những nhận xét sâu sắc về người và việc, một sự khó thấy ở ông Diệm, và ít thấy ở người chung quanh.”
Bà thì vừa xinh, vừa trẻ đẹp, giữ gìn gia phong nề nếp. Thêm một lần nữa, tôi có một ấn tượng rất tốt đẹp về bà Nhu. Theo cha Phước khi đến thăm ông Nhu cùng với vài người khác ngồi ở phòng khách. Chủ khách đàm đạo trong khi bà Nhu không dám ngồi mà chỉ đứng chắp tay vào nhau để trước bụng.
Đấy là cử chỉ của những gia đình có lễ giáo nghiêm ngặt. Tôi không nói thêm cho bà cũng không nói bớt cho.
Nghe sao thì nói lại.
Mà câu chuyện này tôi nghe khi còn ở ngoài Bắc trước khi có cuộc di cư.
Cung cách ấy, cử chỉ như thế, giáo dục nghiêm ngặt, lễ giáo như thế. Sau này có điều gì đi nữa. Làm sao tôi có thể nghĩ xấu cho người phụ nữ này được?
Ai nghĩ xấu thì đó là việc của họ. Còn tôi thì không. Ai ghét thì cứ việc. Còn tôi không là không. Nói xấu cho một người thì dễ. Kính trọng được một người thì mới là điều khó.
Bẵng đi một thời gian gần 10 năm, tôi lại có dịp khác “gặp lại” ông Nhu trong một khung cảnh khác. Hồi ấy, tôi còn là sinh viên Đại học Đà Lạt nên thường tham dự những buổi lễ do nhà trường tổ chức. Đôi lần lại có dịp được thấy ông Nhu. Ông không mặc áo bốn túi nữa, mà áo veste. Gương mặt có phần trĩu nặng ưu tư. Mặc dầu là cố vấn Tổng Thống, ông xuất hiện hết sức low profile. Ngồi một góc. Im lặng. Ai khen thì khen. Ai vỗ tay thì vỗ. Ông vỗ nhẹ tay lấy lệ, còn vẫn ngồi bất động như thể đang nghĩ về một vấn đề gì khác. Gần như ông không chú ý đến ai cả. Có cảm tưởng như ông bắt buộc phải ngồi đó. Có thể ông ghét những thói bề ngoài rình rang với đôi chút tâng bốc, xu phụng. Cả buổi lễ, ông chỉ ngồi chống tay trên thành ghế. Không nhúc nhích, không nói nửa lời.
Nói như cụ Đoàn Thêm thì ông Nhu “cử chỉ lạnh lùng bắt người ta nhớ đến câu của Racine gán cho Néron: ‘Ami ou ennemi, il suffit qu’on me craigne’ (Bạn hay thù, miễn là họ biết sợ mình là đủ).”
Phần tôi, có lẽ chẳng có lệ thuộc gì với ông, tôi nhìn chăm chăm vào ông. Kính phục thì có, sợ thì không.
Tôi dành cả buổi lễ quan sát ông không sót một cử chỉ nào. Ông khác hẳn các viên chức như các ông Trương Vĩnh Lễ, Trương Công Cừu. Cụ Lễ thì khúm núm ra mặt. Các ông lần lượt lên rước lễ mà chắc hẳn ông Nhu không hề chú ý đến những cử chỉ , thái độ của mấy ông này.
Ông không phải là loại người của đám đông.
Cứ nghĩ lại coi, trong 9 năm cầm quyền. Có bao giờ thấy ông Nhu xuất hiện công khai, đăng đàn diễn thuyết (chỉ trong trường hợp thuyết trình học tập như ở Suối Lồ Ồ) đao to búa lớn, hay hình ảnh đăng dài dài trên báo hà rần, cờ xí, duyệt binh, gắn lon gắn chậu, tiền bạc xa hoa, xe cộ tiền hô hậu ủng.
Không. Ông Nhu ít xuất hiện, ít phô trương. Ngược lại kín đáo, nấp sau bóng dáng Tổng Thống.
Tôi đã đọc lại các số báo Lập Trường, Hành Trình, Đất nước và Trình bày sau 1963. Không hề nghe thấy một lời phê phán về cá nhân ông Ngô Đình Nhu. Tiền bạc không, nhà cửa dinh thự không. Mấy ai đã làm được như vậy? Xin hãy đọc vài dòng của cụ Đoàn Thêm viết về ộng Nhu để thấy con người ấy sống như thế nào:
“Tôi còn ghi nhận những ống quần nhầu không ủi, chiếc sơ mi hở cổ cộc tay và hơi cũ, đôi dép da quai sờn . Y phục sức quá sơ sài của em một Thủ tướng khiến tôi phát ngượng, lúng túng trong bộ đồ lớn của tôi. Tôi càng thấy khó hiểu, khi mục kích ông co ro cùng vợ con trong một căn phòng nhỏ hẹp trên lầu dinh Độc lập, tuy còn những phòng rộng rộng lớn và đẹp hơn. Theo một người thân cận, thì ông không muốn ở trong Dinh, chỉ chờ dịp dọn đi, nhưng Ông Diệm không nghe, quyết giữ ông lại để còn luôn luôn hỏi việc. Căn cứ vào những lời ông nói và nếp sống bề ngoài của ông, tôi đã kết luận rằng ông tránh tiếng lợi dụng quyền lực và địa vị của ông anh … Ngay cả hai chữ cố vấn cũng chỉ là nhận bất đắc dĩ.
Theo như lời kể của cụ Đoàn Thêm:
“Đến khi cần cử ông qua Pháp thương thuyết với thủ tướng Edgar Faure, một số người trong chánh phủ thấy ông phải đi với một danh nghĩa chính thức hơn là với tư cách bào đệ ông Diệm. Nên hai chữ cố vấn đã được đem dùng để đồng thời thừa nhận một sự vẫn được coi là hiển nhiên. Ông cũng biết là không tránh được chức vị… Ông Nhu không thoát khỏi lệ thường, nên chỉ tới đầu 1956 là ông hết phản đối (Không chịu người ta gọi là ông cố vấn).
Người nào đã đọc cụ Đoàn Thêm thì đều hiểu rằng, cụ viết cẩn trọng, tương đối khách quan, khen có mà chê cũng có. Vậy nên những nhận xét của cụ phải được coi là khuôn thước, tránh được cái tệ nạn bôi bẩn hay xưng tụng quá mức.
Ông cố vấn sống thanh đạm và đơn giản như thế, hẳn người phụ nữ nào làm vợ ông cũng phải là người thế nào?
Tư cách ở chỗ ấy, trí thức thứ thiệt ở chỗ ấy. Cứ thử nhìn lại, những người thay thế ông sau này, quyền bính vào trong tay, họ đã hành xử thế nào? Cứ như ông Đỗ Mậu hồi làm phó thủ tướng văn hóa, dù chỉ trong một thời gian ngắn, ông xuất hiện nhiều lần hơn gấp bội ông Ngô Đình Nhu trong 9 năm làm cố vấn?
Có một vị nào sau này lên cầm quyền có một phong cách trí thức như một Ngô Đình Nhu và tư cách một kẻ sĩ như một Ngô Đình Diệm?
Từ đầu đến giờ, tôi chỉ muốn nói về CON NGƯỜI mà không đề cập gì đến chính trị. Hay nói như cụ Đoàn Thêm, chế độ đệ nhất cộng hoà là nhân trị hơn pháp trị. Nhưng nếu con người mà không xứng đáng thì nói chi đến thứ khác?
Sau này, tại California, tôi lại một lần nữa nghe từ những người trước nay từng có cơ hội gần gũi ông bà Nhu, ông Diệm, Ông Cẩn, ông Thục.
Tôi đã nói chuyện với sĩ quan tuỳ viên Lê Châu Lộc, sau này là nghị sĩ Lê Châu Lộc. Ông Lộc với bản chất trung thực cho biết, ông biết gì nói nấy, có nói có, không nói không. Ông cho biết 6 năm làm sĩ quan tuỳ viên cho “ông cụ”, kề cận ông cụ ngày đêm. Trong 6 năm đó chỉ gặp bà Nhu trên dưới 10 lần, vì hai ông bà ở khu bên kia dinh Tổng Thống, ít có tiếp xúc qua lại. Ông không mấy thích bà Nhu vì giọng nói của bà Nhu lai Bắc, lai Trung và tính nết tỏ ra cao ngạo. Nhưng đối với tổng thống Diệm thì bà sợ và cử chỉ e dè, khép nép. Không có cái cảnh muốn ra vào văn phòng ông Diệm lúc nào thì vào. Bà là người có phong cách, lịch sự và đàng hoàng. Ông đưa ra hai giai thoại liên quan đến bà Nhu.
Một lần xe của bà Nhu vào Dinh trong khi sắp có xe của một vị tướng Mỹ sắp đến. Ông Lộc đã yêu cầu xe của bà Nhu nhường lối. Bà Nhu vui vẻ nhận lời trong khi người tài xế của bà tỏ vẻ khó chịu. Sau đó bà đã vui vẻ chào.
Một lần nữa, ông Lộc vội vã không kịp chào bà Nhu. Vậy mà việc cũng đến tai “ông cụ”. “Ông cụ” cho biết: Lộc nó là sĩ quan thì chỉ chào sĩ quan có cấp cao hơn, hà cớ gì lại phải chào bà Nhu.
Những chi tiết nhỏ đó cũng cho thấy có nhiều điều xàm tấu, bôi bẩn mà công việc của chúng ta là cần “làm vệ sinh” tẩy rửa những dư luận xấu xa đó.
Trường hợp thứ hai là nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh.
Nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh là người được chọn chính thức chụp ảnh cho gia đình ông Ngô Đình Diệm trong các buổi lễ chính thức. Vì thế, ông đã nhiều lần ra Huế để chụp ảnh cho gia đình ông Diệm.
Ông đã kể lại một cách sinh động duyên dáng về những nhân vật thời đệ nhất cộng hoà. Nhiều nhà văn, nhà báo đã tham dự và được nghe ông kể về những điều này tại toà soạn báo Nhân Chứng, khoảng năm 1980. Đó là Mai Thảo, Phạm Đình Chương, Du Tử Lê, Vũ Văn Hà, Thuỵ Châu, v.v…
Theo lời kể của anh Trần Cao Lĩnh, ông đã hết lời đối với gia đình ông Diệm và đặc biệt là đối với bà Nhu. Bà Nhu là loại người phụ nữ chẳng những có ăn học, có giáo dục. Cử chỉ phong cách quý phái, chừng mực lễ độ trong cư xử. Không phải loại người bờm xơm, cớt nhả, dâm đãng, mất nết như những lời bịa đặt của dư luận ác ý.
Tại Huế, chỉ các đàn ông như các ông Diệm, ông Nhu, GM Thục mới được phép ở nhà trên dùng cơm. Bà Nhu chẳng những sợ và khép nép với ông Diệm mà còn cả với Giám mục Ngô Đình Thục. Theo nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh, Bà Nhu không dám tự tiện vào phòng ông Diệm.
Nhưng phỏng được bao nhiêu người có cơ hội tiếp xúc với bà Nhu, hiểu bà Nhu như ông Trần Cao Lĩnh để rồi kính trọng nhân cách con người bà?
Phải thú thực không có bao nhiêu. Không mấy ai biết bà, nhưng ghét bà, khinh miệt bà thì gần như tất cả. Đàn ông ghét đã đành, đàn bà cũng ghét theo. Ghét ngay từ những năm1955 khi chưa có Quốc Hội, chưa có Hội Phụ nữ Liên đới hay phụ nữ Bán Quân sự. Dưới mắt đám đông, bà Nhu chỉ là một người phụ nữ “mất nết”, ăn mặc hở hang, lố lăng với chiếc áo dài kiểu mới. Phụ nữ chê bai tư cách của bà trong chiếc áo dài kiểu mới, nhưng không ai bảo ai, giới nữ sinh đến loại mệnh phụ phu nhân đều ăn mặc theo kiểu áo dài đó.
Đến độ vào năm 1955, ông Diệm chép miệng than thở: Tội nghiệp, Bà Nhu có làm gì đâu? Không làm cũng chết chỉ vì bà là một người đàn bà. Lại thường nói quá mạnh, cứng rắn trong quan điểm, lập trường, không nhường nhịn. Đàn ông nào nó chịu được.
Có lẽ chúng ta lại cần đến lời bàn của cụ Đoàn Thêm khi nhận xét về bà Nhu xem sao.
Theo cụ Đoàn Thêm:
– Dù không làm hay chưa làm việc gì có hại, người đàn bà không thể thừa thế nhà chồng mà xen vào việc chính quyền.
– Sự ra mặt của bà, dưới mắt số đông, trái ngược hẳn với hình ảnh cố hữu của phụ nữ Á Đông khiêm nhượng, ý nhị hiền hậu, của người mẹ và người vợ Việt Nam.
– Nguyên do sâu xa nhất và đích thật nhất, theo cụ Đoàn Thêm là nỗi ác cảm với bà là do người đã đẹp mà lại muốn khoẻ và hách nữa thì quá lắm, không chịu nổi. Đối với ông Nhu thì người ta còn nhẫn nhịn chờ đợi, nhưng đối với bà thì ngay cả sự xuất đầu lộ diện cũng không được tán thành hay dung thứ.
– Nên dù trái hay phải, người đàn bà VN muốn vội sống theo gương đàn bà tiền phong (avantgarde) Âu Mỹ, tất chưa thể được yên thân trên một đất nước mà nhiều người còn ghê sợ những Võ Hậu và những Từ Hy.
– Tâm lý số đông như vậy nên nhiều con mắt dễ nhìn thấy những sơ hở và lỗi lầm để buộc lỗi gay go. Mỗi lời nói và việc làm của bà đều là những cớ, những dịp cho dư luận chỉ trích nghiêm ngặt.
Bi kịch của chế độ bắt đầu từ chỗ đó. Người ghét cứ ghét, cứ mỗi ngày mỗi nhiều thêm do cái thể chế tam đầu chế, cộng thêm một người phụ nữ là bà Ngô Đình Nhu.
Những người ngưỡng mộ và quý mến bà chẳng bao nhiêu. Sau khi nghe ông Trần Cao Lĩnh kể về bà, có người đề nghị ông nên viết lại về bà Nhu. Vì không ai có đủ tư cách hơn ông để viết. Nhưng rồi ông cũng đã không làm cho đến khi ông lìa đời. Cũng hiểu được, bênh vực một người “mất nết” như bà Nhu nó khó lắm. Tôi hiểu.
Ngay như hơn hai chục nam nữ sinh viên đã tham dự trong phái đoàn Huế đi tham quan dinh Gia Long sau khi hai ông Diệm Nhu bị thảm sát. Họ im lặng đồng lõa với Nguyễn Đắc Xuân. Họ chấp nhận gián tiếp những điều bôi nhọ bà Nhu của Nguyễn Đắc Xuân. Tôi chỉ yêu cầu một cô nữ sinh viên trong số họ cho biết những điều Nguyễn Đắc Xuân viết là đúng hay sai. Nói sai dĩ nhiên là không dám nói. Nói đúng thì hóa ra đồng lõa bôi nhọ. Trả lời khôn ngoan nhất là không nhớ. Không nhớ gì hết.
Theo quý vị độc giả, tôi phải nghĩ thế nào về những sinh viên đã im lặng, không dám lên tiếng về những lời vu cáo của Nguyễn Đắc Xuân?
Nhưng nếu chúng ta có thể tạm quên đi tất cả những điều thị phi, những lời khen chê, những lời bôi nhọ dơ bẩn về bà ấy để chỉ nhìn lại kể từ tháng 11/1963 đến nay bà Nhu đã làm gì? Đã nói gì? Đã viết gì? Và đã sống như thế nào?
Kể từ sau tháng 11/1963, bà rút lui vào bóng tối. Không nói. Cắt đứt mọi liên lạc với mọi người trước nay từng là những người cộng tác với hai ông Diệm và Nhu. Một vài người đã có dịp gặp bà như các ông Cao Xuân Vỹ, Lê Châu Lộc đều nhận thấy bà sống cuộc đời ẩn dật và sống chết với quá khứ đó. Ai hiểu được tâm trạng và nỗi buồn, nỗi đau của bà gần 50 năm này?
Và trong thời gian đó, bà đã sống đúng nhân cách một người phụ nữ? Những năm tháng ấy đã tẩy rửa những điều hàm oan về tiền bạc, con người của bà?
Kể như bà đã chết cùng với hai anh ông Diệm Nhu. Đối với bà, cuộc sống đã không còn nữa. Sự im lặng của bà mang nhiều ý nghĩa: Đắng cay và tủi hận.
Những ai từng kết án bà thì xin nhớ rằng nếu bà là loại người tham tiền cố vị, không tư cách hay tệ hơn nữa trăng hoa, mất nết… Chúng ta sẽ thấy một bà Nhu sống buông thả, quen biết lung tung, tai tiếng đủ loại sau 01/11/1963.
Nhưng ngay những kẻ thù oán, chuyên đặt điều nói xấu bà cũng không có được bằng cớ nhỏ nhoi gì để bôi nhọ bà.
Bà sống ẩn dật một thời gian ở Ý rồi sang Pháp mua hai căn hộ nhỏ, một để ở và một để cho thuê lấy tiền tiêu xài. ngày ngày đi lễ nhà thờ, lấy kinh nguyện làm lẽ sống.
Một con người như thế, chịu biết bao điều sỉ nhục, biết bao điều tệ bạc, phản trắc về thế thái nhân tình.
Nhân cách ấy, cách chọn lựa lối sống ấy, không phải là dễ, không phải ai cũng làm được. Và chỉ cần nhìn lại những tháng ngày sau 1963, tôi nghĩ thật mấy ai đã làm được như bà?
Người ta đồn bà đang viết nhật ký. Mong là như vậy . Ông Lê Châu Lộc có nói với tôi là bà viết nhiều lắm. Tôi chỉ biết vậy.
Trong cuộc sống này, trong suốt những năm làm vợ ông Nhu. Tôi mường tượng hình ảnh mô tả của nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh nói tới ánh mắt reo vui, âu yếm của ông khi nhìn mẹ con bà Nhu ăn mặc chuẩn bị chụp hình. Đặc biệt , ông nuông chiều cậu Út.
Đó là một gia đình êm ấm.
Ông đã chết từ 02/11/1963.
Phần bà Nhu đã chết kể từ ngày ấy. Nhưng bà chết đến hai lần: chết cho ông Nhu và nền đệ nhất cộng hoà và chết cho chính bà, cho cuộc sống hiện nay.
Nghĩ đến hai người phụ nữ danh tiếng tài sắc trong lịch sử Việt Nam cận đại là Nam Phương Hoàng hậu và bà Ngô Đình Nhu, tôi không khỏi có chút so sánh và ngậm ngùi, thương tiếc cho hai người phụ nữ tài sắc ấy mà số phận dành cho họ không khỏi bất công.
Tôi quý mến ông Diệm, tiếc cho ông Nhu và trân trọng quý mến bà quả phụ Ngô Đình Nhu.

Như Viễn Đông đã loan tin, bà Ngô Đình Nhu, nhũ danh Trần Lệ Xuân đã qua đời tại Roma, thủ đô Ý Đại Lợi, vào lúc 2 giờ sáng Chúa Nhật lễ Phục Sinh 24-4-2011. Cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963 xẩy ra lúc bà Nhu đang có mặt tại Hoa Kỳ để “giải độc”, Anh chồng của bà là cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và phu quân của bà là ông cố vấn Ngô Đình Nhu đã bị phe đảo chánh giết trên đường từ nhà thờ Cha Tam về Bộ Tổng Tham Mưu. Từ đó đến nay bà sống ẩn dật tại Pháp và Ý, qua đời tại một bệnh viện ở thủ đô Ý Đại Lợi. Sau cuộc đảo chánh, nhiều người đã viết sách nói về bà Nhu với nhiều ẩn ý. Để tìm hiểu về bà, ngày 25-4-2011, chúng tôi đã phỏng vấn cụ Cao Xuân Vỹ, nguyên Tổng Trưởng Thanh Niên Đệ Nhất Cộng Hòa và ông Lê Châu Lộc, cựu Tùy Viên của cố Tổng Thống VNCH Ngô Đình Diệm và cựu Nghị Sĩ Đệ Nhất Cộng Hòa.
Riêng cuộc phỏng vấn cụ Cao Xuân Vỹ, nội dung những lời cụ nhận xét về bà Ngô Đình Nhu cũng tương tự như cuộc mạn đàm giữa cụ và ông Võ Long Triều (Viễn Đông đã đăng trong số báo hôm qua 26-4-2011). Chỉ có một điều cụ tiết lộ cho chúng tôi là làm cách nào Luật Sư Trương Phú Thứ được gặp bà Ngô Đình Nhu để viết hồi ký. Cụ Cao Xuân Vỹ nói: “Từ hồi đảo chánh tới giờ, bà không tiếp ai cả. Ông Thứ đến tôi mấy lần, năn nỉ tôi giới thiệu cho ông được gặp bà Ngô Đình Nhu, nể tình tôi mới chỉ vẽ cho ông Thứ là hãy lên Đà Lạt, tìm đến căn nhà của bà Nhu đang xây dở dang, chụp tấm ảnh rồi đem qua bên đó, nói là mới ghé thăm căn nhà của bà, có chụp tấm ảnh đem lại biếu bà, vì khi xưa bà Ngô Đình Nhu có mua một căn nhà trả góp tại Đà Lạt, bà cho tu sửa nhưng chưa xong thì xẩy ra đảo chánh, và bà vẫn mong ước làm sao được nhìn thấy căn nhà đó”. Theo cụ Vỹ, ông Trương Phú Thứ đã làm theo lời cụ Vỹ chỉ vẽ, và đã được gặp bà Ngô Đình Nhu, còn việc làm sao ông thực hiện cuốn Hồi Ký cho bà, thì phải hỏi Luật Sư Trương Phú Thứ.
Sau đây là nôi dung cuộc phỏng vấn Nghị Sĩ Lê Châu Lộc
.
Viễn Đông: Xin chào Nghị Sĩ Lê Châu Lộc. Theo chỗ chúng tôi được biết, ông từng là Tùy Viên cho cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, xin ông vui lòng cho độc giả nhật báo Viễn Đông được biết những gì ông biết về bà Ngô Đình Nhu.
Nghị Sĩ Lê Châu Lộc: OK, tôi biết cái gì thì tôi nói nghe, tôi không có phịa ra được, tánh tôi hồi đó tới giờ là như vậy, tôi biết thì tôi nói, không biết thì tôi dựa cột nghe chứ không như mấy tay con nít, hồi đệ nhất cộng hòa mới đi học lớp chót, mà nói chuyện ông Tổng Thống Ngô Đình Diệm cứ như nằm ở dưới giường của ông ấy vậy.
Viễn Đông:
Từ sau cuộc đảo chánh 1-11-1963 đến nay, đã có lần nào bà Ngô Đình Nhu liên lạc với ông không?
NS. Lê Châu Lộc: Có, nhưng mới gần đây thôi. Tôi xin nói rõ là hồi đó bà đi qua Mỹ để giải độc thì ở nhà xẩy ra cuộc đảo chánh cho nên suốt thời gian đó cho đến mãi mấy tháng trước đây tôi mới được nói chuyện lại với bà, là nhờ một dịp may có người bạn chuyển lời của tôi chào thăm bà, nên sau đó bà gọi và tôi nói chuyện với bà, trước khi bà vào nhà thương mấy tuần nay, chỉ có lần duy nhất này thôi, gần 50 năm tôi mới lại nói chuyện với bà.
Viễn Đông: Trong cuộc nói chuyện này, bà Ngô Đình Nhu có trao đổi với ông vấn đề gì đặc biệt không, thưa ông?
NS. Lê Châu Lộc: Câu đầu tiên bà nói: “Lâu quá tôi mới nhớ lại ‘ông sĩ quan’”, giống như bà thường kêu tôi ở dinh Độc Lập hay Dinh Gia Long vậy thôi, vì tôi là sĩ quan tùy viên của Tổng Thống, nên bà tránh kêu tên tôi mà kêu là ông sĩ quan như người Việt mình vẫn hay kêu như vậy. Sau đó, tôi và bà có nói chuyện về một số tài liệu mà bà nhờ người này, người nọ edit giùm, tôi cũng có phụ trong đó một phần, phần nhỏ thôi, tại vì tôi không có thì giờ. Chỉ hỏi thăm sức khỏe và nói mấy chuyện đó chứ không đề cập chuyện gì đặc biệt, mới mẻ hay giựt gân cả.
Viễn Đông:
Hình như bà Ngô Đình Nhu có viết hồi ký, Nghị sĩ có biết việc đó không?
NS. Lê Châu Lộc: Thật ra nhiều người đồn đãi lâu rồi, tôi biết ông Trung Tướng Khánh xăm xê viết hồi ký của bà Nhu, nhưng tôi coi ra thì chẳng phải hồi ký gì, nhưng từ đó tới giờ nhiều người lăm le để có cái lợi gì đó mình không biết, nhưng cái này cũng có thể gọi là hồi ký, cũng có thể coi như là những lời ghi lại phần lớn tâm tư của bà khi bà sống cuộc đời cô đơn, góa bụa như vậy, trong đó nó thể hiện cái “tâm đạo” của bà, những lời than thở, cầu nguyện, khóc lóc với Thiên Chúa về những nỗi bất công mà dân Việt Nam mình phải chịu, về những nỗi bất công mà gia đình bên chồng bà phải chịu, rồi bà hết sức cầu xin cho nước Việt Nam mình sớm trở lại thời kỳ thanh bình mà dân tộc Việt Nam mình được người ta kính trọng. Đại loại cái đề tài cầu nguyện của bà nó xoay quanh cái đau khổ của dân tộc Việt Nam, mà bà là cái người gần gũi nhất cho nên gánh chịu những hậu qủa tàn khốc nhất, thành thử đó là cái tôi biết được, còn nói về vấn đề chánh trị, những cái giựt gân, v.v., thì không có. Cũng có thể có một vài ba vấn đề sinh hoạt quốc gia nhưng không có gì đặc biệt cả.
Viễn Đông: Trong tập tạm gọi là hồi ký đó, có chỗ nào bà Ngô Đình Nhu tỏ dấu trách móc, oán hận những người làm hại gia đình bà?
NS. Lê Châu Lộc: Tôi không cảm thấy có sự oán hận như anh dùng chữ đó, chữ buồn phiền, khóc than thì có thể có, đó là cái tâm tư muốn thấy lại một sự thật mà người ta đã chôn vùi hoặc trả lại cho dân tộc Việt Nam mình công lý và hòa bình, mà mình đã đánh mất do một số người ngu dại làm sai, thì cái đó có. Còn bảo rằng cái hận thù thì tôi đọc tôi không thấy bà đề cập đến, mà tôi có cảm giác như đọc một cuốn hồi ký của một nữ tu.
Viễn Đông: Theo như Luật Sư Trương Phú Thứ cho biết, những ngày gần đây ông ấy vẫn thường xuyên liên lạc với bà Ngô Đình Nhu để hoàn thành cuốn Hồi Ký, và sẽ cho ra mắt vào tháng 9 hay tháng 10 này; việc đó như thế nào, thưa ông?
NS. Lê Châu Lộc: Đúng.
Viễn Đông: Như vậy, chính tay bà Ngô Đình Nhu ghi hồi ký hay bà nói để Luật Sư Trương Phú Thứ viết?
NS. Lê Châu Lộc: Đa số do chính tay bà viết, cũng có một phần do ông Thứ thâu lại khi ông trực tiếp thăm viếng bà.
Viễn Đông: Một số sách báo viết rằng, khi làm Dân Biểu, là vợ của ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, đôi khi bà có những cử chỉ, hành động có vẻ cao ngạo trong cách cư xử với Tổng Thống hoặc phu quân của bà. Là người Tùy Viên Tổng Thống, thường xuyên có mặt trong Dinh, xin ông cho ý kiến?
NS. Lê Châu Lộc: Những người nói hay viết đó, anh có điều tra không? Anh có hỏi: Ông là ai, bà là ai? Chú là ai, cậu là ai? Mà ở đó vào lúc nào, biết được, thấy được và nghe được vào lúc nào hay không? Chắc là không, phải không? Nếu anh nói được cho tôi người nào đó trực tiếp nghe được và nói thì tôi sẵn lòng tôi nghe, còn người ta viết mà họ không tham khảo, không dẫn chứng được mình là ai, không chứng minh được thì cái tin đó ở đâu thì không có giá trị gì, chúng ta đừng nên để ý tới làm gì.
Về vấn đề cư xử thì ở Dinh Gia Long hay Dinh Độc Lập, gia đình ông bà Cố vấn cũng đôi khi qua lại nhưng không qua lại lu bù, đâu đó có nề nếp hết. Khi mà bà Ngô Đình Nhu muốn tham khảo Tổng Thống thì cũng phải qua sĩ quan tùy viên là chúng tôi, thường bà nói: “Ông sĩ quan, tôi có một vần đề muốn xin trình với Tổng Thống, ông sĩ quan thấy Tổng Thống có rảnh lúc nào?”. Thì tôi coi cái chương trình làm việc của Tổng Thống ngày đó, tôi nói: “Dạ không, bữa nay không có” hay “Bữa nay có lúc mấy giờ…”. Thì bà nói: “Cũng được, thôi thì ông trình với Tổng Thống cho tôi xin gặp Tổng Thống chút được không”? Tôi vào trình, nếu Tổng Thống cho thì tôi mời bà vô còn không thì thôi, vậy đó chứ không có chuyện ra vô lu bù. Tôi xác nhận hoàn toàn không có.
Thứ hai là cái cử chỉ của bà đối với người chồng là ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu thế nào tôi không biết, nhưng mà hai vợ chồng ông, tôi không thấy bao giờ lớn tiếng. Cái này có lẽ phải hỏi những anh em cận vệ ở đó, chứ tôi không biết chuyện phòng the của hai ông bà.
Thứ ba là đối với Tổng Thống, bà một mực kính trọng, khi Tổng Thống nói không có rảnh thì bà vui vẻ ra về ngay. Có đôi khi Tổng Thống nói với tôi: “Anh bảo bà ấy chờ”, thì bà chờ. Đó là sự thật về cái nề nếp gia giáo trong gia đình họ Ngô. Ngay cả ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu muốn lên trình diện với Tổng Thống không phải cứ tự tiện vô, ông cũng phải qua sĩ quan Tùy Viên là chúng tôi, thường ông hỏi: “Anh Lộc ơi, cụ rảnh không?”. Thì tôi nói, thí dụ cụ rảnh lúc 12 giờ 15, thì ông Cố vấn nói, “Tôi chỉ nói chuyện với cụ khoảng 10, 15 phút thôi”, và tôi vô tôi thưa, thì Tổng Thống nói, ừ mời ông Cố Vấn vào. Và tôi thấy hai ông rất kính trọng nhau, tôi có thể quả quyết với anh về điều này, người nào nói ông Nhu hay bà Nhu lạm quyền muốn leo lên đầu Tổng Thống là không đúng. Chúng ta nên nhớ, thời đó là thời kỳ chúng ta chống cộng mà, chúng đâm bị thóc, thọc bị gạo, cố xuyên tạc, bôi nhọ, nó dùng chiến thuật tuyên truyền để mà khuynh đảo miền Nam.
Bây giờ ở vào thế chống cộng khó khăn mình mới thấy nó dùng truyền thông, nó bỏ 500 triệu đô la để nó thi hành cái đường lối thâm nhập, nó khuynh đảo mình. Hồi trước người ta không biết cho nên cứ nghe rồi đồn ra mà không chịu tìm hiểu sự thật gì hết.
Còn những người Mỹ mà nói ra những điều đó, anh coi kỹ lại đi, những người Mỹ đó có bao giờ vào thăm viếng một gia đình Việt Nam không hay đáp máy bay xuống là đến đường Tự Do, nói chuyện với mấy người đổi tiền, với mấy cô bán bar lấy tin tức về Việt Nam bằng cách đó, thì họ về họ viết trong sách vở, báo chí và ai cũng cứ tin theo đó mà không có biết cái chuyện thật như thế nào.
Nên riêng với anh, tôi xin thưa, cái chuyện liên hệ giữa gia đình ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, kể cả bà Ngô Đình Nhu với Tổng Thống là một cái liên hệ Trên, Dưới rõ rệt.
Viễn Đông: Có một thời gian, ông Trần Văn Chương (thân phụ bà Ngô Đình Nhu) làm Đại Sứ VNCH tại Hoa Kỳ xin từ chức, nghe nói vì lý do chế độ của TT. Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo. Điều đó như thế nào, thưa ông?
NS. Lê Châu Lộc: Chuyện đàn áp Phật giáo có hay không, anh trả lời tôi nghe! Hồ sơ của Ủy Ban Điều Tra Liên Hiệp Quốc nó còn đó. Chuyện của ông bà Chương, rõ ràng lúc đó là hiểu sai. Từ hiểu lầm hoặc nó bị mờ tối gì đó như thế nào không biết, mà cứ dựa theo tin tức của người Mỹ do những hỏa mù người Mỹ phóng ra, rồi xúm nhau người quốc gia Việt Nam mình cấu xé cho đến độ người Mỹ đem 500.000 quân nhảy vào rồi bỏ chạy có cờ, rồi bỏ mặc mình kéo nhau xuống biển mà chết, có không? Cái chuyện ông bà Trần Văn Chương làm, ngay chính bây giờ những người thân thuộc trong gia đình ông bà cũng rất khổ tâm!
Viễn Đông: Giả sử khi cuộc đảo chánh xẩy ra, bà Ngô Đình Nhu vẫn ở trong nước thì theo nhận xét của ông, tánh mạng của bà Ngô Đình Nhu có an toàn không?
NS. Lê Châu Lộc: Thật sự tôi không biết rõ cái quan điểm của người Mỹ đối với bà Ngô Đình Nhu, nhưng đối với Tổng Thống Diệm và ông Ngô Đình Nhu thì rõ ràng. Trong tài liệu đã giải mật, người Mỹ ra lệnh giết anh em Tổng Thống nhưng không thấy ra lệnh giết bà Ngô Đình Nhu.
Viễn Đông: Một cách tổng quát, xin Nghị Sĩ Lê Châu Lộc cho độc giả báo Viễn Đông biết cảm nghĩ riêng của ông về bà Ngô Đình Nhu.
NS. Lê Châu Lộc: Từ lâu tôi đã nghĩ thế này, chứ không phải sau khi bà Nhu qua đời, tôi cảm thấy buồn phiền và hối hận, vì cái chuyện dân mình đã không khôn ngoan đủ để mà có sự nhận xét về người, về việc, về đường lối, sách lược và ý đồ của cộng sản để rơi vào chính sách hỏa mù mà nguời bị chỉ trích ghê gớm nhất là bà Ngô Đình Nhu, tôi phải nói thật là tội nghiệp hết sức! Tôi không biết bà nhiều. Trong thời gian tôi làm hơn 4 năm có thể nói tôi gặp bả chừng lối năm, bảy lần gì đó, nói chuyện đôi ba lần. Ở trong những buổi tiếp tân, dạ yến, dạ tiệc gì thì bà giữ vai trò Đệ Nhất Phu Nhân thì tôi thấy bà là một người hiểu biết, khôn ngoan lắm mà bà giữ vai trò của bà là vợ hay là em dâu Tổng Thống rất đàng hoàng, bà giữ vai trò đệ nhất phu nhân bên cạnh Tổng Thống Diệm rất là xuất sắc. Bà có kiến thức tây học và đông phương, do đó ông bà đại sứ các nước Nhật Bổn, Ấn Độ, Đại Hàn hay Đài Loan, v.v., ai cũng rất kính nể bà. Đối với những người Tây phương như ông bà đại sứ Pháp, ông bà đại sứ Mỹ, Anh họ cũng quý trọng bà vô cùng, bởi vì bà bặt thiệp, lanh lợi và khôn ngoan, nhất là trong cái áo dài, gọi là áo dài hở cổ Ngô Đình Nhu, thì tôi thấy được một con người đàn bà có tinh thần tự trọng, có sáng kiến y như là người mẹ, người vợ, người chị, người em Việt Nam nào khác vậy, rất là có sự quán xuyến công việc. Bà làm việc đến nơi đến chốn.
Bà thảo ra Luật Gia Gia Đình, tôi cho là một cái luật tiến bộ cho đến giờ này, ngày hôm nay vẫn còn giá trị, chứng tỏ Việt Nam mình đã có quan niệm về phụ nữ đi trước Liên Hiệp Quốc cả 50 năm. Tại sao tôi nói vậy? Bởi vì cái Luật Gia Đình của bà Ngô Đình Nhu mục đích là để bảo vệ cho quyền lợi người phụ nữ Việt Nam, bảo vệ trẻ con Việt Nam và bảo vệ cho gia đình Việt Nam. Ấy thế mà với Mỹ và cộng sản nó thành ra cái luật cấm đàn ông Việt Nam lấy hai vợ. Khổ nỗi, cái sự tuyên truyền của nó khéo léo cho đến độ mà chính người phụ nữ Việt Nam mình cũng chống đối cái luật đó mới chết chứ! Bây giờ dòm lại, thấy cái luật đó thấy tiếc quá! Bây giờ cái trào lưu nhân loại nó tiến bộ, xuyên qua Liên Hiệp Quốc, nó đã thể hiện cái tinh thần phải kính trọng người phụ nữ, phải thương yêu, bảo bọc cho trẻ con, và nhiều quốc gia, thấy hoàn cảnh gia đình nó suy đồi thì đã cố gắng gây dựng lại cái gia đình như là nền tảng của một xã hội lành mạnh.
Vì vậy nhân bà Nhu nằm xuống, tôi nhớ tới một trong nhiều việc bà làm, đó là việc thảo ra Luật Gia Đình, và tôi mong rằng cái dịp này sẽ gây lại sự chú ý của thế hệ phụ nữ Việt Nam ở trong nước cũng như ngoài nước, để nhớ lại cái thân phận của mình, và để nhớ lại rằng đã có một thời kỳ, mình đã có một bộ luật mà hiện tại nó vẫn còn đó, có thể phải tiến hành nữa để làm sao cho người phụ nữ Việt Nam được có chỗ xứng đáng như là Liên Hiệp Quốc đã thể hiện như trào lưu của tư tưởng tiến bộ của nhân loại. Đó là chuyện làm tôi nhớ lại trong vai trò của bà Cố vấn ở trong đó, có những cách cư xử, sự khôn ngoan và trong vai trò Dân Biểu, bà đã làm gì và đã chứng tỏ bà là ai? Xuyên qua những lời mà tôi đọc ở mớ giấy bà viết, phần lớn bằng tiếng Pháp, tôi thấy bà là người có cái “tâm đạo” lớn, hết sức sâu sắc.
Suốt thời gian đó tôi không thấy có sự cay cú mà là sự khóc lóc, cầu nguyện để không phải xin cho mình, bởi vì bà sống cuộc đời như là ẩn tu, có đôi khi một ngày bà chỉ uống nước thôi, cái này ông Thứ ông làm chứng được, bà chỉ cầu nguyện xin làm sao để Ơn Trên thương đến dân Việt Nam, trả lại cho dân Việt Nam cái công lý để nó có thể đi tới hòa bình. Không có công lý cho dân tộc Việt Nam, chúng ta không có hòa bình. Dân tộc Việt Nam bị coi như một công cụ từ đời Tây thuộc rồi Mỹ thuộc, chỉ bắt đầu khi nền Đệ Nhất Cộng Hòa xây dựng một cái xã hội, trong đó có sự công bằng, nhân vị con người được tôn trọng rõ rệt trong đời sống quốc gia. Người phụ nữ được kính trọng, nên anh thấy một bước rất dài, từ thời Pháp thuộc tới thời kỳ Đệ Nhất Cộng Hòa, bao nhiêu người phụ nữ, không riêng gì chỉ làm bác sĩ, giáo sư mà vào quốc hội, làm nghị sĩ, dân biểu, làm những việc lớn trong xã hội. Con đường đó bị đứt đoạn vì cuộc đảo chánh năm 1963, thành ra nhân dịp này tôi nhớ lại vài đặc điểm đó của bà Cố Vấn Ngô Đình Nhu, nhưng đặc biệt tôi nhấn mạnh đến con người đó, có thể khó hiểu đối với một vài người, nhưng đối với tôi, giọng nói của bà vì có pha lẫn Bắc, Trung, Nam, bà là con của gia đình, người cha là Bắc, mẹ là Trung, sống ở trong Nam, lớn lên ở trong Nam, đi học trường Pháp cho nên ngôn ngữ có thể có những cái bất lợi, người ta nghe nó có hơi trái tai; cách trình bày làm cho người ta có thể nói là mất cảm tình. Hoặc là vì không có đủ thời giờ để giáo dục người phụ nữ Việt Nam, giáo dục người dân Việt Nam về quyền lợi thiết yếu của người phụ nữ và của dân Việt Nam, cho nên người ta hiểu lầm. Nói một cách chung, những công trình mà TT. Ngô Đình Diệm và Đệ Nhất Cộng Hòa cố gắng thành đạt, dĩ nhiên có sự thiếu sót gây nên sự đổ vỡ. Có dịp nào khác chúng ta sẽ nói nhiều hơn. Hôm nay qua câu hỏi của anh, tôi chỉ đưa ra một vài khía cạnh như vậy.
Viễn Đông: Xin chân thành cám ơn Nghị Sĩ Lê Châu Lộc, hẹn gặp ông vào dịp khác.
NS. Lê Châu Lộc: Thân chào các anh chị em trong tòa soạn và độc giả nhật báo Viễn Đông.

Bà Ngô Đình Nhu : Từ thời trẻ sôi động đến những tháng năm ẩn dật

Tin bà Trần Lệ Xuân tức bà Ngô Đình Nhu, người từng được coi là Đệ nhất phu nhân của Việt Nam Cộng Hòa trước đây từ trần tại Roma cách đây đúng một tuần, ngày chủ nhật 24/4, đã khiến cho dư luận trong và ngoài nước hết sức chú ý. Sau cuộc đảo chính năm 1963, hầu như không ai biết gì về bà, vì bà sống ẩn dật, hầu như không có một tiếp xúc nào với thế giới bên ngoài. Người ta chỉ biết là bà đang viết một cuốn hồi ký.
Sinh năm 1924 trong một gia đình danh gia thế phiệt, thân phụ là luật sư Trần Văn Chương, thân mẫu là cháu ngoại của vua Đồng Khánh và là em họ của vua Bảo Đại, năm 19 tuổi bà lập gia đình với ông Ngô Đình Nhu. Khi ông Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, thì ông Nhu làm cố vấn chính trị, và vì ông Diệm độc thân nên bà Trần Lệ Xuân luôn là người đứng ra tiếp các phu nhân của các vị quốc khách.
Bà Trần Lệ Xuân cũng là dân biểu Quốc hội, chủ tịch phong trào Phụ nữ Liên đới. Bà đã đưa ra đạo Luật gia đình cấm người đàn ông lấy hai vợ, Luật bảo vệ luân lý và thuần phong mỹ tục, đồng thời có nhiều hoạt động xã hội khác. Chiếc áo dài cổ hở do bà đề xướng, vào thời đó được gọi là « áo dài bà Nhu », cũng là một dấu ấn mà bà để lại đến ngày hôm nay. Là một phụ nữ tài giỏi, xông xáo, nhưng bà cũng có những phát biểu gây sốc làm cho không ít người bất bình.
Tháng 10/1963, bà và con gái là Ngô Đình Lệ Thủy đi Hoa Kỳ và Roma với dự định tố cáo âm mưu lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm của Tổng thống Kennedy và CIA. Nhưng ngày 1/11/63 đã xảy ra đảo chánh, ông Diệm và ông Nhu đều bị sát hại. Bà rời Mỹ với lời tuyên bố : « Tôi không thể sống ở Mỹ, đơn giản vì chính phủ Mỹ đã đâm sau lưng tôi ». Bà sống lặng lẽ ở Paris cho đến cách đây một năm sức khỏe yếu dần, thì sang Roma với người con lớn cho đến khi mất. Một trong những câu nói nổi tiếng của bà là : « Ai đã có người Mỹ là đồng minh thì chẳng cần phải có kẻ thù ».
Luật sư Trương Phú Thứ, người chịu trách nhiệm biên soạn và in ấn cuốn sách của bà Trần Lệ Xuân cho biết, theo dự định thì tác phẩm này sẽ được ra mắt vào năm 2012. Khi được hỏi, cuốn sách do chính bà viết ra hay có ai chấp bút cho bà, ông Trương Phú Thứ nói :
Bà viết ra tự tay bà viết ra chứ không có ai viết thay bà hết, vì bà không có liên lạc với bẩt cứ một người nào hết. Đó là điểm thứ nhất. Điểm thứ hai : các con bà ở mỗi người một nơi. Bà viết cái này khi bà còn ở bên Paris, tức là khi sức khỏe của bà còn tốt. Bà viết trong căn phòng appartement có một mình bà thôi, thì bà đâu có nhờ ai viết được, bà tự viết lấy.
Tiếng Việt của bà thì kém lắm, tiếng Pháp rất là giỏi. Tiếng Pháp bà viết còn hơn cả những người có bằng cấp về văn chương Pháp ở Pháp. Tiếng Pháp của bà rất giỏi nhưng mà tiếng Việt thì kém lắm, thành ra bà phải viết bằng tiếng Pháp. Thế thì bà đưa cho mình, và mình có nhiệm vụ dịch ra tiếng Việt Nam.
Thưa anh, một nhân vật như bà Nhu thì chắc chắn nhiều người rất là trông chờ để biết vì mấy mươi năm nay không có tin tức gì của bà hết. Như vậy liệu cuốn sách đó có đáp ứng được mong đợi của người đọc không ?
Cái này thì tùy theo quan điểm của người đọc. Những người nào tò mò muốn biết về đời tư của bà như thế nào, hoặc thái độ đối xử của bà đối với những người đã gây ra những đau khổ cho bà, hoặc những người vu oan nói xấu bà này nọ, thì không có. Bà không đề cập đến chuyện đó, vì bà coi đấy là những chuyện không đáng để nói tới. Quyển sách của bà truyền đạt những suy tư, tư tưởng của bà đối với thân phận con người, đối với tạo hóa, và rất có thể là nhiều người đọc sẽ thất vọng lắm. Nhưng những cái gì của bà viểt ra thì mình sẽ đưa ra cho công chúng như vậy thôi, mình không thể nào thêm bớt được hết. Một dấu phẩy, một dấu chấm mình cũng không thay. Thứ nhất là bây giờ bà chết rồi mình phải tôn trọng cái đó một cách tuyệt đối.
Như vậy đây không phải là một cuốn tự truyện ?
Không phải là tự truyện mà cũng không phải là hồi ký. Thông thường người ta hiểu hồi ký là viết lại những chuyện đã xảy ra trong quá khứ, những chuyện vui chuyện buồn, chuyện của một cá nhân của một con người. Thế nhưng bà đã quên hết rồi. Bà đã sống 48 năm từ khi lưu vong ra nước ngoài, trong một căn phòng, một chỗ ở rất nhỏ hẹp, sống một cách quá cô độc, không tiếp xúc, không có liên lạc với bất kỳ một người nào hết. Bà chỉ đi ra ngoài mỗi buổi sáng. Thời gian mà bà còn khỏe mạnh thì bà đi ra ngoài, đi lễ ở nhà thờ Saint Léon.
Lâu nay vẫn có nhiều dư luận trái chiều nhau về bà Trần Lệ Xuân. Như vậy trong sách có nói gì về những lời đồn đãi chung quanh tính cách của bà không?
Chuyện đó thì không có. Bà Ngô Đình Nhu hay bất kỳ một người nào trên thế gian này cũng có người ghét người thương. Không ai có thể nói là mình được tất cả mọi người thương mến, kính phục hết, cũng có người này gièm pha ba câu, người kia đố kỵ…Thế nhưng bà Nhu không hề động chạm, đề cập đến bất kỳ một chuyện lớn nhỏ nào như thế. Từ khi bà chọn một cách sống, ở một mình trong một căn phòng, tức là bà đã muốn quên hết, muốn bỏ lại đằng sau lưng tất cả. Những chuyện lớn chuyện nhỏ, chuyện vui chuyện buồn bà bỏ hết. Bà sống như một người khổ tu, gần gần như một người khổ tu vậy.
Ngay cả vấn đề ăn uống, bà cũng chẳng có nấu nướng gì hết. Tôi thấy trong bếp của bà cũng chẳng có một cái nồi, cái chảo hay thìa muỗng gì hết. Trong tủ lạnh mở ra thì độc có một vài chai nước, chỉ có vậy thôi.
Thế thì bây giờ người ta hỏi bà ăn ở đâu, bà cũng phải ăn chứ ! Thì thường thường những người Pháp ở trong chung cư đó, họ biết bà như vậy nên thường một hai ngày họ nấu đồ ăn họ mang tới cho bà.
Còn nếu không thì bà sống như thế nào nếu bà không ăn uống gì ạ?
Bà ăn rất ít. Có một lần bà nói với tôi, đây nè anh Thứ à, hai ngày hôm nay tôi chưa ăn và uống gì. Thế rồi bà cười, bà nói là vì tôi không ăn uống nên tôi không có bệnh gì hết.
Nhưng phải nói là bà rất khỏe. Bà chỉ cảm thấy yếu từ đầu năm 2010. Mới đây thôi. Thứ nhất là vì cái tuổi già, đến đầu năm 2010 thì bà bắt đầu cảm thấy yếu. Nhưng mà cách đây chừng độ hai tháng, bà gọi điện thoại cho tôi, tiếng nói của bà vẫn còn rất là to, rất là khỏe. Bà cũng cười vui vẻ lắm trên điện thoại, thì tôi nghĩ là bà khỏe lắm. Thế nhưng mà sau đó thì vì tuổi già, sức khỏe sụt xuống một cách quá mau lẹ.
Thì bà cũng qua đời vì tuổi già thôi, chứ thật ra chẳng có bệnh tật gì. Có một cái vấn đề về sức khỏe là cái chân của bà bị gẫy từ xưa, thành ra đôi khi cũng hơi đau đau chút chút vậy thôi, nhưng không có đau đớn nhiều lắm. Ai đến tuổi già thì cũng bệnh như vậy thôi, cũng suy sụp như vậy thôi, chứ không phải riêng gì bà Nhu. Có nhiều người già phải nằm trên giường bệnh hết năm này qua năm khác. Nhưng mà bà Nhu nằm trên giường bệnh chưa đến một tháng, khoảng độ ba bốn tuần lễ vậy thôi. Bà đi một cách rất là bình an, như vậy thì tôi nghĩ cũng là một phước lành, một phúc đức của bà.
Và cũng có người thân chung quanh ?
À, các con cái thì như cô biết là bây giờ bà còn hai người con trai và một cô con gái. Anh con trai lớn là Ngô Đình Trác thì có vợ con, vợ anh người Ý. Còn cô con gái út là cô Ngô Đình Lệ Quyên thì chồng cũng là người Ý luôn. Nhưng con trai giữa là Ngô Đình Quỳnh thì sống độc thân một mình, không có vợ con gì hết, ông làm việc bên Bỉ.
Khi bà Nhu về La Mã, bà ở căn nhà của gia đình Ngô Đình Trác. Nhà đó cách thủ đô La Mã khoảng 10 cây số. Cái nhà đó là nhà trệt, không có tầng lầu, nhưng mà dưới có một cái tầng hầm. Gia đình ông Trác ở trên, và gia đình của cô Lệ Quyên ở dưới. Họ sống với nhau cả bao nhiêu năm trời rồi, rất là vui vẻ, rất là hòa thuận.
Khi bà yếu quá, ông Trác đưa vô trong nhà thương… Bên đó chắc là mấy người con cũng bận rộn với vấn đề lo tang lễ cho bà, không biết là ngày nào giờ nào nhưng mà tôi biết chắc chắn là sẽ tổ chức rất là kín đáo, trong gia đình mà thôi.
Giám đốc giáo xứ Việt Nam ở Paris, đức ông Mai Hữu Vinh có cho biết là nhiều người tới xin lễ cho bà…
Ở đây, ở California tối hôm qua cũng có làm một buổi lễ để cầu nguyện cho bà Nhu, và trong nhà thờ rất đông, vì họ cũng quý mến bà lắm. Và tôi có được thông báo là tiểu bang Oregon chiều thứ bảy này họ cũng xin lễ ở nhà thờ để cầu nguyện cho bà. Thôi thì bà chết như vậy mà được mọi người nhớ đến trong một cái ân tình như vậy, tôi cũng mừng cho bà lắm.
Vâng, thì thôi cũng tốt cho bà, với những sóng gió mà bà đã trải qua…
Ông và bà Ngô Đình Nhu, năm 1956 (DR).
Bây giờ cô thấy nhé, một người đàn bà sống trong bốn bức tường nho nhỏ, trong một căn phòng nho nhỏ, một hai ngày thì còn chịu được. Bà sống như vậy 48 năm liền, tức là từ năm 1963 cho tới ngày bà qua đời. Thế thì bà sống bà chỉ còn có một cái hy vọng duy nhất thôi, tôi nói là hy vọng cũng không đúng, bà sống chỉ có một cái chờ đợi thôi, là đến một ngày nào đó được gặp lại người chồng của bà. Bà Nhu rất yêu mến và kính trọng ông Nhu.
Như cô biết là khi mà ông Nhu bị thảm sát như vậy, thì bà Nhu lúc đó mới có 39 tuổi. Một người phụ nữ 39 tuổi còn quá trẻ, nhưng mà bà vẫn ở vậy. Bà ở vậy để chờ đợi đến ngày gặp ông chồng. Và khi bà quá vãng ở cái tuổi 87, bên Việt Nam mình thì tính là 88, riêng cá nhân tôi thì tôi mừng cho bà, thấy đó là một sự giải thoát cho bà.
Nhưng một người phụ nữ trẻ đẹp, góa chồng lúc còn trẻ, ở cái tuổi đó mà đã từng nắm trong tay quyền lực rồi, đã nổi tiếng, thì chọn lựa một cuộc sống ẩn dật bao nhiêu năm có lẽ là không dễ.
Bởi vậy tôi mới nói là bà có một nghị lực rất là phi thường. Bà có nghị lực cao lắm. Chứ nếu ở một người bình thường có thể họ bị suy sụp về tinh thần, mà suy sụp tinh thần kéo theo suy sụp về thể xác. Tôi nghĩ là những người không có cái nghị lực như bà Nhu thì chắc sống không có lâu được như bà Nhu đâu. Mà bà từ hồi mà phải đi lưu vong ra ngoại quốc rồi đến khi bà chết là 48 năm, nửa thế kỷ chứ đâu phải một hai tháng gì.
Mà tại sao trước bao nhiêu dư luận như vậy bà lại im lặng ?
Vì bà đóng kín cửa, bà có nghe thấy dư luận gì đâu ! Bây giờ người ta có nói tốt hay nói xấu cho bà, bà cũng không nghe thấy. Bà đóng cửa kín không giao thiệp với ai, không biết gì hết. Thì tôi nói như hồi nãy là bà sống như một người nữ tu, mà nữ tu khổ hạnh lắm, chứ không phải nữ tu thường đâu. Bên đạo Công giáo có những dòng tu họ chỉ đóng cửa cầu nguyện với Chúa thôi, chứ chẳng có tiếp xúc với thế giới bên ngoài, thì bà Nhu cũng như thế. Đóng kín cửa không giao thiệp với ai, làm sao bà biết được ai nói xấu, ai nói tốt cho bà. Bà không biết !
Hồi đó bà vốn là người lăng xê thời trang áo dài cổ hở, người ta gọi là « cổ bà Nhu », nhưng mà khi anh tiếp xúc với bà thì anh có thấy bà ăn diện không ?
Không. Khi tôi tiếp xúc với bà thường thường thì bà hay mặc cái áo kimono của Nhật. Bà nói với tôi những cái áo kimono này là của một vài người bạn Nhật, mỗi năm họ gửi cho vài ba cái để mặc ở trong nhà.
Còn về cái áo khoét cổ, thì khi tôi nói chuyện với bà, bà nói ở Sài Gòn nóng quá - bà lấy hai ngón tay ra dấu như cái kéo - thì tôi cắt cái cổ đi cho nó mát. Bà nói là, tôi mặc như vậy thì Tổng thống không có bằng lòng. Tôi nghĩ là về sau thì nhiều người theo cái mốt của bà Nhu cũng mặc áo dài hở cổ, thì chắc là ông Tổng thống cũng chẳng để ý đến cái chuyện đó nữa.
Có vẻ như là vì bà Nhu lấy chồng khi còn trẻ quá, nên cả ông Diệm lẫn ông Nhu coi bà như một người em gái nhỏ thì phải ?
Có thể là đối với ông Nhu thôi, còn đối với ông Tổng thống là đâu ra đó, trên dưới lễ phép đàng hoàng. Một người thân cận với Tổng thống là nghị sĩ Lê Châu Lộc, vốn là tùy viên, cũng xác nhận mỗi lần bà Nhu muốn vào gặp Tổng thống là phải ăn mặc chỉnh tề, và phải xin sĩ quan tùy viên vào trình với Tổng thống. Tổng thống cho vào gặp thì mới được gặp, còn không thì bà vẫn vui vẻ ra về như thường. Tức là không có cái chuyện vì bà nhỏ tuổi mà bà hành xử thiếu tôn ti trật tự, vì gia đình của họ là một gia đình nền nếp, có trên có dưới, và rất là tôn trọng lẫn nhau. Thứ hai nữa là bà phải tôn trọng người anh chồng của bà là một vị Tổng thống chứ không phải là một người anh chồng thường. Thành ra mỗi lần bà muốn gặp hoặc là thưa trình với Tổng thống là phải có sự xếp đặt của các viên chức phụ giúp Tổng thống.
Bà có kể cho tôi nghe một câu chuyện. Hồi đó ông Tổng thống Ngô Đình Diệm không có vợ, thành ra mỗi một lần có các vị quốc khách đi với phu nhân đến Sài Gòn, thì người đứng ra tiếp đón các vị phu nhân đó chính là bà Nhu chứ không ai khác. Tôi nhớ bà là người rất giỏi giao thiệp, tiếng Anh tiếng Pháp cũng rất lưu loát. Hồi đó bà không có cái gì để mà chưng diện khi tiếp đón các phu nhân ngoại quốc. Không biết bà được ai đánh tiếng là có một bà vợ một ông bộ trưởng muốn bán một bộ vòng tay, nhẫn…với cái giá sáu ngàn đồng Việt Nam, họ nói là nếu bà cố vấn muốn mua thì họ bán lại cho. Bà Nhu không có tiền, bà trình Tổng thống, ông thấy chuyện đó cũng được nên lấy tiền lương của ông cho bà để mua bộ nữ trang đó, nhưng với điều kiện là bắt người bán phải viết một tờ giấy trình bày lai lịch của nữ trang và quyền sở hữu. Bà nói với tôi đó là lần duy nhất Tổng thống cho tiền, và bây giờ bà cũng không biết những nữ trang đó thất lạc ở đâu.
Bà có hay kể cho anh những chuyện tương tự vậy không ?
Thì khi trong câu chuyện hễ bà nhớ đến cái gì, hay khi mình hỏi cái gì thì bà cũng nói. Đại để là khi nói chuyện với bà tôi tuyệt đối không nói về những vấn đề chính trị, hay những ngày bà còn ở Dinh Độc Lập ; những chuyện có thể gây khó chịu hoặc đau khổ cho bà tôi không nói tới. Thường thường là những chuyện mưa nắng thôi chứ chẳng có gì quan trọng hết.
Vì những gì bà muốn tâm sự là với khối người Việt Nam, cả cộng đồng người Việt Nam, chẳng những ở ngoại quốc mà cả trong nước Việt Nam nữa, thì bà đã viết trong cuốn sách của bà rồi. Thành ra mai mốt khi nào quyển sách đó ra, người đọc sẽ có những phán đoán, nhận xét về những tư tưởng của bà.
Trong sách bà không đề cập đến những vấn đề chính trị, những vấn đề mà đa số người muốn biết. Thí dụ như thái độ của bà đối với những người cầm khẩu súng mà bắn vào đầu chồng bà như thế nào. Có nhiều người nghĩ là bà sẽ chửi rủa những người kia, sẽ nói nặng lời với họ, nhưng tuyệt đối bà không nói một câu. Bà không để ý tới những chuyện đó nữa. Bà muốn quên, bà bỏ lại đằng sau lưng tất cả, và đặc biệt là bà muốn tha thứ tất cả.
Bà muốn tha thứ là vì bà là người rất sùng đạo. Bà nói, Chúa đã tha thứ cho bà, thì bà phải tha thứ cho tất cả mọi người, đơn giản vậy thôi. Bà không có thù oán, và không bao giờ nói nặng nhẹ đến những người đã gây khổ đau cho gia đình bà, không nói tới một câu.
Như vậy đây không phải là hồi ký mà gần như là những tâm sự, suy tư về cuộc đời ?
Như tôi đã nói, đó không phải là một hồi ký thông thường. Thành ra những người nào muốn tò mò chuyện thâm cung bí sử, những oán trách… thì không có. Đừng trông chờ những cái đó trong quyển sách của bà. Khi anh Lê Châu Lộc trả lời phỏng vấn của một đài truyền thanh, thì anh nói một câu rất đúng : đọc quyển sách đó anh có cảm tưởng như sách của một vị nữ tu. Nhưng quyển sách của bà tôi nghĩ người nào mua về đọc thì họ sẽ giữ lại, sẽ nghiền ngẫm, đọc lui đọc tới để mà hiểu.
Nhưng dù sao bà Nhu cũng là một chứng nhân của lịch sử, và có những chuyện chỉ có người trong cuộc biết, nếu bà ôm cái bí mật đó theo thì có uổng không ?
Tượng Hai Bà Trưng ở bến Bạch Đằng, Saigon, bị cho rằng giống khuôn mặt bà Trần Lệ Xuân và con gái là Ngô Đình Lệ Thủy, đã bị đập bỏ khi bà đi lưu vong ở nước ngoài (DR).
Bây giờ có cái gì là bí mật nữa đâu. Tất cả mọi chuyện đã phơi bày ra ánh sáng hết cả rồi. Ai giết ông Tổng thống, ai giết chồng bà ấy, những thế lực nào đứng đằng sau cuộc đảo chánh, hoặc là bà có bao nhiêu tiền, có bao nhiêu đồn điền…thì người ta biết hết cả rồi, chả có gì gọi là bí mật nữa.
Bà có đặt tựa cho cuốn sách đó chưa ?
Có. Bà lấy một cái dẫn dụ trong Cựu Ước để đặt tựa cho cuốn sách.
Và anh sẽ là người dịch ?
Tôi có sự giúp đỡ rất quý báu của anh Nguyễn Kim Quý, rất giỏi tiếng Pháp. Anh có bằng tiến sĩ văn chương Pháp, và là giáo sư Pháp văn của các trường đại học ở Mỹ. Anh giúp tôi về chuyện đó.
Khi viết cuốn sách này bà Nhu có ước vọng gì, dành cho người Việt hay cho độc giả các nước ?
Bắt đầu cách đây khoảng chừng mười năm, lần đầu tiên tôi gặp bà cố vấn Ngô Đình Nhu, thì bà viết bằng tiếng Pháp, và có ý định sau khi viết xong thì bà sẽ tự tay dịch sang tiếng Anh và tiếng Ý. Thế nhưng về sau có thể có nhiều lý do, như là sức khỏe không được tốt như hồi trước, hoặc là bà bận bịu, nên bà chỉ viết bằng tiếng Pháp mà thôi. Mà ngay cả bản bằng tiếng Pháp thì cũng còn phần cuối dang dở. Thành ra để vài ba tuần lễ nữa, khi gia đình lo tang lễ cho bà xong thì lúc đó tôi sẽ hỏi để lấy cái phần cuối cùng đó.
Có dài lắm không ạ ?
Dài ! Nguyên bây giờ thì cũng đã gần 500 trang rồi, nhưng in ra thì tôi nghĩ khoảng 300 trang thôi vì chữ viết của bà to.
Bà Nhu muốn quyển sách này đến với độc giả khi bà còn sống, chứ không phải là khi bà chết rồi. Thế nhưng khi còn sống bà chưa làm được chuyện đó, thành ra bây giờ khi bà mất mình giúp đỡ để hoàn thành giấc mộng của bà là đưa quyển sách, đưa tư tưởng, suy tư của bà đến với độc giả, đến với người Việt Nam.
Anh dự định cho xuất bản ở đâu ?
Tôi sẽ in và phổ biến bên Mỹ này thôi, còn đương nhiên là sau đó tôi sẽ gởi đi những quốc gia có cộng đồng người Việt Nam đông như là Anh, Pháp, Đức…
Các con của bà có ý kiến gì về cuốn sách này không ?
À, hầu như là không. Vì họ lớn lên ở ngoại quốc, họ tôn trọng tính độc lập của từng cá nhân. Các con của bà thì đương nhiên rất là yêu mến và kính phục bà, nhưng họ không có xen vào những chuyện mà bà làm.
Và những người con của bà Nhu có vẻ cũng kín tiếng như bà ?
Thì như cô thấy đó, từ hồi năm 1963 cho đến giờ các con của bà có ai ra ngoài công chúng, có nói năng gì đâu, không ! Họ rất là im lặng, y như bà vậy thôi. Họ cũng giữ một cái khoảng cách quá xa xôi đối với thế giới bên ngoài
Bà Trần Lệ Xuân (DR).
Qua thời gian tiếp xúc với bà Nhu, anh có cảm tưởng như thế nào về bà ?
Cảm tưởng của tôi thì cũng như rất nhiều người đã nhận xét về bà. Bà là một người đàn bà tài giỏi, can đảm, dám nói và dám làm. Chẳng hạn một chuyện trong quá khứ, khi bà đưa ra đạo luật về gia đình ở Việt Nam, đề cao nhân phẩm của người phụ nữ. Đạo luật đó được Quốc hội biểu quyết thông qua, cấm đàn ông lấy hai vợ, và những vấn đề khác nữa, để nâng cao đời sống của người phụ nữ Việt Nam lên. Mặc dầu hồi đó có những sự chống đối nhưng bà vẫn can đảm vượt qua.
Một phụ nữ như thế mà chọn cuộc sống ẩn dật có lẽ không dễ ?
Tôi thấy là khi chọn lựa một cuộc sống như vậy, chắc là bà phải có những suy nghĩ và quyết định rất là khôn khéo. Từ khi mà bà phải sống lưu vong ở ngoại quốc sau vụ đảo chánh ngày 1/11/63 ở bên Việt Nam, gần như không có ai nói tới bà nữa. Nhưng không phải là người ta sẽ để cho bà yên. Trường hợp nếu bà có một cái manh động, một lời nói, cử chỉ sao đó, đương nhiên họ sẽ nói tới rất nhiều.
Hồi xưa lúc chồng bà chết rồi thì bên Mỹ Tổng thống Kennedy cũng bị giết, thì bà Kennedy cũng là góa phụ. Thế nhưng bà Kennedy về sau đi đến đâu thì người ta theo dõi đến đó, người ta có những bản tường trình đầy đủ, chuyện xấu cũng có mà chuyện tốt cũng có. Thế nhưng đối với bà Nhu thì tuyệt nhiên không, vì bà không đi đâu hết ! Bà tự giam hãm mình trong một căn phòng. Ngay cả buổi sáng đi lễ bà cũng mặc quần áo rất kín đáo, đội mũ, che đầu… để không ai nhận ra bà hết.
Về phần ông linh mục ở nhà thờ Saint Léon, bà đã đi lễ ở nhà thờ đó nhiều năm rồi mà về sau ông mới biết đó là bà Ngô Đình Nhu. Ngay cả sau khi lễ xong bà ở lại dọn dẹp, trang hoàng nhà thờ thì ông cũng nghĩ đó là một giáo dân bình thường thôi. Mãi mấy năm sau, không biết người nào nói với ông thì ông mới biết !
Cũng có nhiều người muốn có một tấm hình của bà lúc về già, nhưng tôi nghĩ là chẳng có ai chụp được cái hình nào hết. Đương nhiên là bà phải già đi, nhưng trông vẫn còn khỏe lắm và vui tươi. Tôi có nhận xét, mỗi lần bà cười trông bà trẻ lắm, làm tôi nhớ lại những hình ảnh mà tôi được coi trên báo chí, trông rất trẻ !
Khi bắt đầu cuộc sống lưu vong ở nước ngoài từ năm 1963, bà không có một đồng trong túi…
Như vậy làm sao bà mua được hai căn nhà ở Paris ?
Hai căn nhà là mãi sau này, do một bà bá tước người Ý cho. Mà bà này cho rất là kín đáo, bà Nhu không biết. Thì bà Nhu có một số tiền rất lớn, tôi không biết là bao nhiêu nhưng mà căn hộ đó dù ở trên tầng lầu thứ 11 nhưng cái tòa nhà ở khu đó đắt lắm. Bà nhờ một ông cựu bộ trưởng thời chính phủ De Gaulle mua giùm hai cái appartement.
Có nhiều người đặt câu hỏi, vì sao lại có một số tiền trên trời rớt xuống như vậy, thì vấn đề có nguyên do của nó. Tức là Ngô Đình Trác, con trai lớn của bà lấy một cô vợ người Ý, mà gia đình cô này là một trong những gia đình thế phiệt, vọng tộc, giàu có nhất của nước Ý, thì từ chỗ đó mà ra. Người ta thấy bà sống vất vưởng không có nhà cửa thì có một người cho một số tiền nhưng ẩn danh, không nói cho bà Nhu biết. Mãi đến bốn năm sau, bà kia chết thì bà Nhu mới biết đó là người đã cho mình tiền để mua nhà.
Xin phép được tò mò thêm một câu, tên đề trên hộp thư và interphone tại tòa nhà nơi bà sống là bà Trần Lệ Xuân hay là bà Ngô Đình Nhu ?
Tôi nghĩ có thể bà ghi tên trên hộp thư là bà Ngô Đình Nhu, vì mỗi lần tôi gửi sách cho bà thì tôi đề là Madame Ngô Đình Nhu, bà đều nhận được hết.
Xin cám ơn luật sư Trương Phú Thứ từ Hoa Kỳ đã vui lòng dành thì giờ trao đổi với RFI Việt ngữ hôm nay về bà Trần Lệ Xuân tức bà Ngô Đình Nhu.

--- On Sun, 5/1/11, Hung Nguyen <http://www.blogger.com/> wrote:

From: Hung Nguyen <
hungthe42@yahoo.com>
Subject: <<CursilloVietnam>> Fw: NHỮNG BÀI VIẾT VỀ BÀ NGÔ ĐÌNH NHU
Received: Sunday, May 1, 2011, 2:41 PM

No comments:

Post a Comment