Saturday, June 2, 2012

Một bài phỏng vấn không nên bỏ qua

Một bài phỏng vấn không nên bỏ qua

Ô. Cao Xuân Vỹ kể việc Ô. Ngô Đình Nhu
bí mật gặp Ô. Phạm Hùng
Tác Giả: Minh Võ, San Diego

ÔNG CAO XUÂN VĨ KỂ VIỆC NGÔ ĐÌNH NHU BÍ MẬT GẶP ÔNG PHẠM HÙNG Ở KHU RỪNG TÁNH LINH-BÌNH TUY
Ô. Ngô Đình Nhu
Như đã hứa, ( 1) ông Cao Xuân Vỹ, sau ba lần vào cấp cứu và điều trị tại bệnh viện, đã vui lòng dành cho chúng tôi một cuộc phỏng vấn để cống hiến bạn đọc một số hồi ức và kỷ niệm của ông trong thời gian đi theo Việt Minh kháng chiến rồi về hợp tác với chính phủ Ngô Đình Diệm với tư cách là người phụ tá thân cận của ông Ngô Đình Nhu, bào đệ và là cố vấn chính trị của Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
1. Hỏi: Thưa ông, nghe nói ông cùng quê Nghệ An với ông Hồ Chí Minh?
Đáp: Phải. Tôi người làng Thịnh Mỹ, phủ Diễn Châu ở về phía biển, còn ông Hồ ở xã Kim Liên huyện Nam Đàn về phía núi.
2. Hỏi: Ông có thể cho biết gia đình ông có liên hệ gì với gia đình ông Hồ không?
Đáp: Tôi được biết ông cố tôi là cụ Cao Xuân Dục, thượng thư bộ học thuộc triều đình Huế có giúp đỡ thân phụ ông Hồ là Nguyễn Sinh Sắc về tài chính và khuyến khích, giúp đỡ ông ấy nhiều trong việc học hành để có thể đi thi và đậu phó bảng. Một phần vì ông Nguyễn Sinh Sắc là bạn học với ông nội tôi là Cao Xuân Tiếu. Đây là hình căn nhà ông nội tôi cho ông cử Sắc. (Ông Vỹ đưa xem hình căn nhà.)
3. Hỏi: Có tài liệu của phía Cộng Sản, như của Sơn Tùng và Nguyễn Đắc Xuân nói, khi thấy ông Nguyễn Sinh Sắc thi hỏng khoa Ất Mùi, (năm 1895), ông Cao Xuân Dục đã giúp cho ông Nguyễn Sinh Sắc được vào Huế, để có phương tiện và đủ sách vở hầu tiếp tục việc học và có thể thành đạt. Điều này có đúng không?
Đáp: Đúng. Ông cố tôi còn can thiệp để cho ông Nguyễn Sinh Sắc, dù không phải là con quan cũng được vào học ở Quốc Tử Giám. Đến khoa thi năm Tân Sửu (1901) chánh chủ khảo Cao Xuân Dục thấy khóa sinh Sắc không trúng tuyển đã cho lệnh xét lại bài thi của 4 thí sinh để rồi xin vua Thành Thái cho ông ta đậu phó bảng. Khóa ấy có 9 tiến sĩ, 13 phó bảng. Ông Sắc đậu phó bảng thứ 11.

4. Hỏi: Hồi còn nhỏ ông có biết về hoạt động của Cộng sản ở quê nhà và có chứng kiến các cuộc nổi dậy của Cộng Sản thường được gọi là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh không?
Đáp: Có. Phong trào này mạnh nhất ở hai huyện Nam Đàn và Thanh Chương. Nhiều người bị chết oan. Cộng Sản đã giết hai tri phủ. Vì thế phản ứng của chính quyền bảo hộ cũng rất quyết liệt. Pháp đem bom thả cũng giết nhiều người, trong số ấy có cả Cộng Sản lẫn thường dân. Cha tôi có kể lại rằng để đối phó với phong trào này, ông Nguyễn Hữu Bài, thượng thư bộ Lại của Triều Đình Huế, (tương đương với chức thủ tướng thời nay), đã cho áp dụng một kế hoạch chiêu dụ Cộng Sản khá thành công. Lúc ấy ông cố tôi cùng ở trong nội các Nguyễn Hữu Bài.
5. Hỏi: Khi Việt Minh cướp chính quyền ông ở đâu? và có ủng hộ họ không?
Đáp: Lúc ấy tôi đang học ở Hà Nội. Tôi nhớ là mấy tháng trước khi Việt Minh cướp chính quyền, thanh niên sinh viên Hà Nội chúng tôi rất hăng hái ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim, vì là chính phủ của Việt Nam độc lập đầu tiên, dù phải nhờ có người Nhật lật đổ người Pháp. Nhưng chúng tôi rất phấn khởi và đã ủng hộ hết mình. Tiếc rằng bỗng nhiên chính phủ này từ chức ngày 7 tháng 8 (1945). Thật khó hiểu. Tuy từ chức nhưng chính phủ Trần Trọng Kim vẫn xử lý theo lệnh nhà vua. Khi mà Việt Minh tới trám vào chỗ trống chính trị này thì chúng tôi đã đi theo Việt Minh. Chúng tôi không biết Việt Minh là Cộng Sản. Thực ra lúc ấy chả mấy người biết Việt Minh là Cộng Sản.
6. Hỏi: Ông có gặp ông Hồ bao giờ không?
Đáp: Có. Hồi ấy tôi ở trong phong trào thanh niên sinh viên tranh đấu. Chúng tôi được hai ông Hoàng Minh Giám và Phan Mỹ giới thiệu để gặp ông Hồ ở Bắc Bộ Phủ. Lúc ấy ông ấy có cái vẻ bề ngoài rất ân cần và dễ mến. Về sau tôi mới hiểu tại sao ông ấy đã chiêu dụ được nhiều người đi theo ủng hộ Việt Minh. Cho đến giờ này tôi vẫn nghĩ ông ta thật là thông minh và xảo quyệt. Lại được tay Võ Nguyên Giáp cũng rất thông minh trợ tá đắc lực. Tôi học với Võ Nguyễn Giáp 4 năm, Tôi biết ông ta rất rõ. Ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường đã tỏ ra sắc sảo và quả đoán… Rất “độc tài”. Nhưng dầu sao Võ Nguyên Giáp không thể sánh được với Ngô Đình Nhu. Còn Phạm Văn Đồng thì không đáng là học trò Ngô Đình Nhu.
7. Hỏi: Rồi tại sao ông lại bỏ Việt Minh?
Đáp: Vì chúng tôi kết án ông Hồ đã ký thỏa ước mồng 6 tháng 3, nhượng bộ Pháp quá nhiều. Hơn nữa họ đã hãm hại nhiều người yêu nước bất đồng chính kiến. Chúng tôi chạy sang phía Việt Cách của các ông Nguyễn Hải Thần và Nghiêm Kế Tổ…
8. Hỏi: Khi nào thì các ông rời Hà Nội?
Đáp: Liền khi cuộc chiến giữa Việt Minh và Pháp bùng nổ ngày 19-12-46. Lúc ấy ông Hồ và đại bộ phận Việt Minh chạy lên Việt Bắc kháng chiến. Thì chúng tôi gồm 36 nhà trí thức và thanh niên sinh viên tranh đấu chạy vào khu Tư, gồm Thanh Nghê Tĩnh, để cùng với một số Việt Minh ôn hòa lập một phòng tuyến mới phi Cộng Sản chống thực dân và giúp dân mở mang về kinh tế và văn hóa. Có thể nói Liên Khu Tư lúc ấy như là một khu tự trị.
9. Hỏi: Ông có thể cho biết tên một số trong 36 nhà trí thức mà ông bảo đã rời Hà Nội vào Liên Khu Tư sau kháng chiến bùng nổ không?
Đáp: Tôi còn nhớ chẳng hạn có Luật Sư Trần Chánh Thành, các ông Trần Hữu Dương, Hồ Đắc Điềm, Phạm Thành Vinh, sau này trở thành rể của ông Hồ Đắc Điềm, ông Nguyễn Duy Quang, người của ông Bảo Đại, ông Phan Huy Xương, anh của bác sĩ Phan Huy Đán tức Phan Quang Đán, ông Tôn Thất Trạch v.v… Các ông này về sau đã hợp tác với thủ tướng Ngô Đình Diệm. Ông Trần Chánh Thành từng là bộ trưởng phủ thủ tướng, với ông Tôn Thất Trạch là đổng lý văn phòng. Ngoài ra, về phía thường dân tôi nhớ còn có bà Hòa Tường là một thương gia giầu có ở phố Hàng Đào cũng đi theo.
Tôi xin nói thêm ông biết điều này, là những vị này và tôi hồi đầu theo Việt Minh. Nhưng tất cả đều không phải Cộng Sản. Và ngay từ 1930 thì đã có hai phe cùng chống Pháp một bên là Đảng Cộng Sản, lúc ấy chưa có Việt Minh. Một bên là các nhân vật và tổ chức quốc gia phi Cộng Sản trong đó ngoài những người như ông Ngô Đình Diệm đã bắt đầu hoạt động từ đó, còn có các chiến sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng, mà đảng trưởng là Nguyễn Thái Học và 13 đồng chí đã bị Pháp xử bắn.

10. Hỏi: Khi nào ông rời Liên Khu Tư vào Sài Gòn và gặp ông Ngô Đình Nhu?
Đáp: Chúng tôi rời Liên Khu Tư ra Hà Nội. Chứ chưa vào Sài Gòn. Lúc ấy là vào khoảng đầu năm 1953. Ông Hồ Chí Minh theo lệnh Stalin và Mao Trạch Đông khỉ sự chuẩn bị mở chiến dịch Giảm Tô và cải cách ruộng đất. Có người thân trong Việt Minh cho chúng tôi biết. Nên tìm đường chạy trước. Về sau trong họ tôi có nhiều người có chút tư điền bị đem ra đấu tố. Chị ruột tôi cũng bị giết. Tôi “dinh Tề” qua ngả Phúc Nhạc, Phát Diệm là khu an toàn tự trị dưới quyền trông coi của giám mục Lê Hữu Từ. Khó khăn lắm mới tới được Hà Nội. Hà Nội lúc ấy đang sống an bình dưới chính quyền Bảo Đại. Tôi đi thoát được là nhờ có người chú họ ở trong tổ chức Việt Minh cấp cho một giấy thông hành. Ở Hà Nội tôi gặp lại các ông Đặng Văn Sung, Phan Huy Quát từng hoạt động chung với chúng tôi thời 1945.
Trong thời gian còn ở Liên Khu Tư chúng tôi nghe biết cán bộ Cộng Sản trong tổ chức Việt Minh chịu ảnh hưởng rất lớn bởi cán bộ Trung Cộng. Sau khi Mao Trạch Đông chiếm trọn lục địa vào cuối năm 1949, ông ta đã bắt Hồ Chí Minh gửi một số lớn cán bộ Việt Cộng sang Tầu để tẩy não, cải tạo tư tưởng, bắt học tập chủ nghĩa Mao-ít. Vì cái chủ nghĩa này mà các chiến dịch giảm tô và cải cách ruộng đất đã đẫm máu với những vụ con tố cha, vợ tố chồng và nông dân tàn sát lẫn nhau thật rùng rợn. Làng tôi có ông hàn Lương biết mình sắp bị đưa ra đấu tố đã nhảy xuống giếng tự tử, vậy mà đội cải cách đã lôi xác ông lên để đấu cái thây ma. Chúng đánh nát bấy cái thây ấy. Tôi mong có người thâu thập những tin tức khắp nước về cuộc Cải Cách Ruộng Đất thời gian đó để cho mọi người biết Cộng Sản dã man chừng nào.
11. Hỏi: Khi nào thì ông gặp ông Ngô Đình Nhu?
Đáp: Cuối năm 1953. Tôi vào Sài Gòn thì gặp lại ông Trần Chánh Thành. Ông Thành giới thiệu tôi với ông Nhu. Ông Thành vào Sài Gòn năm 1952 cùng một lượt với phần lớn trong số 36 nhà trí thức đã vào Liên Khu Tư để kháng chiến chống Pháp nhưng bất hợp tác với Việt Minh. Lúc gặp lại tôi thì ông Thành đang làm cho tờ báo Xã Hội của ông Nhu, đồng thời tập sự luật sư với Luật Sư Trương Đình Du...
12. Hỏi: Theo chỗ chúng tôi biết thì ông Ngô Đình Nhu từng có 5 nhiệm vụ quan trọng: một là dân biểu Quốc Hội, hai là Cố Vấn Chính Trị của Tổng Thống, ba là thủ lãnh Thanh Niên Cộng Hòa, bốn là Tổng Bí Thư đảng Cần Lao Nhân Vị, và sau hết vào năm cuối cùng ông còn là chủ tịch ủy ban liên bộ về Ấp Chiến Lược. Vậy ông ấy có một lực lượng nhân sự nào đáng kể để giúp thi hành chừng ấy nhiệm vụ không? Ví dụ ông ấy có mấy văn phòng? Có bao nhiêu nhân viên được ăn lương?
Đáp: Ông ấy chỉ có một mình thiếu tá Phạm Thu Đường làm chánh văn phòng, thường được gọi là chánh văn phòng ông Cố Vấn. Và dưới quyền thiếu tá Đường chỉ có 5 nhân viên, hầu hết tự túc. Không có ngân khoản nào dành cho ông Cố Vấn. Và phải nói thực khó hiểu là chính chức Cố Vấn này cũng chẳng được một văn kiện nào bổ nhiệm hay quy định nhiệm vụ. Thực tế ông Nhu chỉ giúp việc cho riêng ông Diệm với tư cách là phụ tá cho Tổng Thống. Người ta thấy việc ông làm thì gọi ông là Cố Vấn vậy thôi. Vì thế ông không có quyền hạn và nhiệm vụ gì chính thức.
Còn về thủ lãnh Thanh Niên Cộng Hòa, thì ông chỉ thị cho chúng tôi, phải tự túc. Mọi đoàn viên đều tự nguyện và tự túc theo tinh thần cách mạng. Cho nên cũng chẳng có quyền lợi gì.
Về văn phòng dân biểu, ông cũng không có. Thực ra ông ấy rất ít đi họp Quốc Hội. Chỉ khi nào có vấn đề chính sách quan trọng như Ấp Chiến Lược chẳng hạn, hay vấn đề “Giáo Dục nhân bản”, vấn đề “kinh tế tư hữu cơ bản” v.v.. thì ông mới tới trình bày mà thôi. Cho nên mọi thứ một mình ông cáng đáng. Tôi thật phục sức làm việc của ông Nhu.
13. Hỏi: Thế còn chức chủ tịch ủy ban liên bộ về Ấp Chiến Lược thì sao? Có văn thư nào quy định không?
Đáp: Chức này thì có. Nhưng cũng chỉ là một thông tư của phủ Tổng Thống gửi đến các bộ, để việc ông chủ tọa các phiên họp Ủy Ban Liên Bộ được danh chính ngôn thuận. Ông Nhu quan niệm chương trình Ấp Chiến Lược là một cuộc cách mạng xã hội và chính trị, chứ không phải chỉ là một chiến lược để đối phó với sự xâm nhập và khủng bố của Cộng Sản mà thôi. Ông thúc đẩy các tỉnh trưởng khai hóa người dân quê theo tinh thần tam túc, nghĩa là tự túc về tư tưởng, tự túc về tổ chức và tự túc về kỹ thuật, để có thể làm chủ cuộc đời mình, làm chủ được xã hội, không bị lệ thuộc vào bên ngoài, vào ngoại bang. Ông để rất nhiều thì giờ đích thân soạn những bài thuyết trình có tính lý luận cao dành cho các cấp lãnh đạo chính phủ và cán bộ cao cấp, chỉ cho họ cách thức đưa những tư tưởng cao vào đầu óc thường dân qua những hình ảnh và ngôn ngữ bình dân dễ hiểu. Mục đích của ông là tiến dần tới một xã hội có tổ chức cao, có đầy đủ các phương tiện truyền thông, giao tế, kinh tế, văn hóa cao trong đó mỗi con người, “mỗi nhân vị”, đều được quan tâm đồng đều, chứ không biến con người thành những “cái đinh, con ốc” trong một guồng máy xã hội theo kiểu Cộng Sản. Ông tin tưởng rằng phương pháp đó về lâu về dài sẽ làm cho CS phải đầu hàng. Chứ không phải chỉ dựa vào những hàng rào giây kẽm gai. Dĩ nhiên ban đầu thì việc rào ấp là cần thiết để giữ cho Ấp Chiến Lược được an toàn trước sự phá hoại và tấn công của du kích CS. Quốc sách Ấp Chiến Lược mà thành công thì Cộng Sản sẽ thành cá bị tát ra khỏi ao, nằm trên đất.
14. Hỏi: Về đảng Cần Lao Nhân Vị, nó thành hình ra sao, và ai là những đồng chí cốt cán nhất của ông Nhu?
Đáp: Hai người cùng với ông Nhu sáng lập ra đảng Cần Lao Nhân Vị là các ông Trần Quốc Bửu và Huỳnh Hữu Nghĩa. Nhưng ban đầu các ông không gọi tên đảng là Cần Lao mà gọi là đảng Công Nông. Nhưng vì không muốn gợi ý về cái liên minh công nông của Cộng Sản, nên về sau các ông đổi ra là Cần Lao. Còn vế Nhân Vị thì sau nữa mới thêm vào theo đề nghị của ông Nhu. Ông Bửu, chủ tịch Liên Đoàn Lao Công có kinh nghiệm về đấu tranh nghiệp đoàn, đã quen ông Nhu khi còn ở bên Pháp. Và ông Huỳnh Hữu Nghĩa một tín đồ Cao Đài, là cố vấn chính trị của tướng Trình Minh Thế. Ông Nghĩa đã giúp ông Nhu chinh phục được tướng Thế, chứ không phải như có người Mỹ cho rằng ông Nhu có được ông Thế là nhờ đại tá Edward Lansdale. Ông Lansdale có can thiệp để quân của tướng Thế được hợp thức hóa và trả lương như Quân Đội Quốc Gia thì đúng. Người nào bảo Lansdale dùng tiền mua Tướng Thế là cố tình xuyên tạc để hạ uy tín của một vị tướng kiên cường anh dũng, thanh liêm mà anh em ông Diệm rất quý trọng. Khi nghe tin tướng Thế tử trận Tổng Thống Diệm đã ngất xỉu. Điều này tướng Lansdale có ghi trong hồi ký.
Văn phòng Tổng Bí Thư đảng Cần Lao cũng do một mình Thiếu Tá Phạm Thu Đường quán xuyến, kiêm nhiệm.
15. Hỏi: Ông Ngô Đình Diệm có giữ vai trò gì trong đảng Cần Lao không?
Đáp: Không. Ông ấy hoàn toàn ở ngoài và trên đảng Cần Lao. Với ông Diệm chỉ có Tổ Quốc và Quốc Dân. Tôi còn nhớ khoảng năm 1956, Tổng Thống gọi tôi vào bảo tôi lên cao nguyên đèo heo hút gió để quan sát nghiên cứu tìm ra những địa điểm thích hợp để lập các khu dinh điền, hòng đưa người kinh lên trấn giữ địa điểm mà ông bảo là vô cùng quan trọng về mặt chiến lước. Tôi thấy mình đi thì ông Nhu thiếu một trợ lý. Lại cũng hơi ngán cảnh cô đơn ở nơi xa lạ. Tôi bèn thưa với Tổng Thống: Công tác đoàn thể của ông Cố Vấn đang thiếu người. Tổng Thống nói: Đoàn thể gì. Dẹp. Tuy nhiên rồi ông cũng đấu dịu. Cứ đi đi. Thỉnh thoảng tôi sẽ lên với anh… Cũng cần thêm rằng ông Diệm rất quan tâm đến vùng cao nguyên. Ông thường nói: giữ được cao nguyên thì giữ được miền Nam. Và ông tìm cách đưa nhiều cán bộ và những người dân có kinh nghiệm với Cộng Sản lên đó lập nghiệp.
16. Hỏi: Ông nghĩ gì về việc chính phủ Ngô Đình Diệm tổ chức trưng cầu dân ý truất phế ông Bảo Đại?
Đáp: Nhiều người chê ông Diệm, là nhà Nho mà bất trung, không giữ lời thề trung thành với cựu hoàng. Nhưng tôi thấy không đúng. Trước hết chính cựu hoàng bảo ông Diệm chỉ thề trước Thánh Giá trung thành với Tổ Quốc. Thứ nữa, khi cựu hoàng triệu ông sang Pháp, ông Diệm đã sẵn sàng lên đường, dù biết sang đó sẽ mất chức thủ tướng.
Nhưng chính nhóm liên khu Tư chúng tôi đã thuyết phục ông, gần như làm áp lực với ông, để ông bỏ ý định sang Cannes . Chúng tôi xúm vào yêu cầu ông ở lại lấy cớ tình hình không cho phép vắng mặt. Chúng tôi phải nói với thủ tướng rằng nếu Cụ bỏ chúng tôi lại mà đi một mình thì sinh mệnh chúng tôi ai sẽ lo? Chúng tôi đã bỏ tất cả vào đây là vì cụ, vì tin cụ sẽ bảo vệ phần đất tự do còn lại này, bảo vệ chúng tôi. Nay cụ nỡ lòng nào bỏ chúng tôi, bỏ đất nước này cho Thực dân, Cộng Sản? Rồi nhiều đoàn thể họp nhau lại đặt ông Diệm trước sự việc đã rồi là tự ý hạ bệ ông Bảo Đại. Cuộc trưng cầu dân ý của chính phủ Ngô Đình Diệm tổ chức sau đó chỉ là để hợp pháp hóa hành động của chúng tôi.
17. Hỏi: Có sử gia Mỹ bảo ngày 22 tháng 8 năm 1963, Thanh Niên Cộng Hòa đã tấn công chùa Xá Lợi cùng với Cảnh Sát và Lực Lượng Đặc Biệt. Điều này có đúng không?
Đáp: Hoàn toàn bịa đặt. Tổ chức này không phải để dùng vào những việc như vậy. Nó là tổ chức phi vũ trang mà.

18. Hỏi: Sử gia Mark Mayor viết trong tác phẩm Triumph Forsaken rằng gần ngày đảo chính, tỉnh trưởng Định Tường báo cáo với ông Nhu rằng đại tá Có là phụ tá của tướng Đính rủ ông ta làm đảo chính. Ông Nhu hỏi lại tướng Đính, thì tướng Đính xin đi chém đầu Có. Ông có biết vụ này không?
Đáp: Không cần tỉnh trưởng Định Tường báo cáo thì ông Nhu đã biết rồi. Nhưng ông muốn cứ để vậy để theo dõi.

19. Hỏi: Khi ông cùng ông Nhu đi gặp Phạm Hùng ở Bình Tuy, ông Nhu có cho ông biết hai người họ bàn chuyện gì không?
Đáp: Lúc ấy thì không. Chỉ biết chúng tôi cùng đến Quận Tánh Linh ở đây có một vùng do Cộng quân kiểm soát. Ban đầu cứ tưởng đi săn cọp như mọi khi. Nhưng đến nơi ông Nhu bảo chúng tôi ở ngoài, còn ông đi về phía trước độ vài trăm mét. Có Phạm Hùng chờ ở đó. Sau này về nhà tôi cũng không tiện hỏi ông Nhu. Nhưng qua những gì ông tự ý nói ra vào một lúc nào đó thì, nội dung câu chuyện trên một tiếng đồng hồ, gồm nhiều điều cho đến nay vẫn chưa được tiết lộ. Có một điều mà phía họ rất quan ngại, nếu không bảo là sợ, rất sợ chương trình Ấp Chiến Lược. Họ yêu cầu cho biết ai là người chủ trương và mục đích để làm gì? Ông Nhu trả lời: đó chỉ là một chủ trương của chính phủ nhằm bảo vệ sinh mạng và tài sản của người dân, ngăn ngừa sự xâm nhập, phá phách của du kích các ông… Các ông bảo cán bộ đừng tìm cách đánh phá làng xã, thì chúng tôi sẽ bỏ luật 10/59. Cán bộ các ông có thể về sống với dân lành tại các ấp…
Về các điều kiện để hiệp thương thì nhiều lần Tổng Thống Diệm đã nói, phải có 6 giai đoạn:
- Bắt đầu bằng việc cho dân hai miền trao đổi thư tín tự do.
- Rồi cho dân qua lại tự do
- Thứ 3 là cho dân hai bên được tự do chọn đinh cư sang bên kia nếu muốn
- Thứ 4 mới đến giai đoạn trao đổi kinh tế. Ví dụ miền Nam đổi gạo lấy than đá của miền Bắc chẳng hạn.
- Qua được các giai đoạn đó rồi mới tiến tới hiệp thương.
- Và sau cùng là tổng tuyển cử.
Có lần ông Nhu tính với chúng tôi: Ông dự đoán rằng, nếu cho dân tự do chọn nơi định cư, thì căn cứ theo tình trạng về tự do dân chủ tồi tệ và kinh tế kiệt quệ của miền Bắc lúc ấy, sẽ có khoảng 3 triệu người dân sẽ dần dần vào định cư ở miền Nam. Vì vậy “mình” phải chuẩn bị đất cho dân. Ông cũng tính rằng hiện dân số miền Bắc có tới 23 triệu, trong khi dân số miền Nam chỉ có 17 triệu. Nếu có được 3 triệu dân Bắc vào định cư ở miền Nam thì dân số 2 bên sẽ cân bằng. Bầu cử tự do, với sự giám sát của Quốc Tế thì chắc mình sẽ thắng.
20. Hỏi: Lần ông tháp tùng ông Nhu đi dự lễ đăng quang của quốc vương Ma-rốc năm 1962, ông có cho biết là sau đó các ông đến Paris gặp ông Pinay, đại diện Tổng Thống Charles De Gaulle, bàn chuyện hiệp thương với ông Hồ. Lúc ấy có mặt giáo sư Bửu Hội không?
Đáp: Dĩ nhiên là có. Vì Giáo sư Bửu Hội là đại sứ của VNCH ở Ma-rốc, và là bạn học với ông Nhu ở bên Pháp. Ông Bửu Hội lại từng là cố vấn cho Hồ Chí Minh. Nên trong việc này, có thể nói vai trò của ông Bửu Hội cũng quan trọng không kém ông Nhu. Ông Nhu và chúng tôi ở khách sạn Grillon cả tháng. Cuộc tiếp xúc xảy ra nhiều lần mà hầu như lần nào cũng có sự hiện diện của giáo sư Bửu Hội. Ông Nhu cho biết lúc ấy ông Hồ Chí Minh đã nhờ ông Jean Sainteny xin Tổng Thống De Gaulle giúp. Ông Hồ biết là ông De Gaulle đang có chủ trương trung lập Đông Dương, lại hận Mỹ đã “hất cẳng” Pháp. Ông Hồ nhờ Sainteny xin Tổng Thống De Gaulle can thiệp để tiếp xúc với Sài Gòn. Tổng Thống Pháp rất sốt sắng trong việc này. Sau chuyến đi này ít tháng thì xảy ra vụ ông Nhu “đi săn cọp” ở Tánh Linh.
21. Hỏi: Gần ngày đảo chính đại sứ Cabot Lodge có điện đàm với Tổng Thống Diệm. Lúc đó ông có ở bên cạnh Tổng Thống không?
Đáp: Không.
22. Hỏi: Trong cuốn Nhớ Lại Những Ngày ở Cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cựu đại tá Nguyễn Hữu Duệ viết rằng ông ta xin phép Tổng Thống đem xe tăng thiết giáp lên bộ tổng Tham Mưu để bắt các tướng và dẹp đảo chính. Nhưng Tổng Thống không cho. Ông có biết chuyện này không?
Đáp: Lúc ấy tôi đang ở bên Tổng Thống Diệm và ông Nhu tại dinh Gia Long. Chính tôi nghe điện thoại của ông Duệ và trình lên Tổng Thống.
Tổng Thống la tôi: Các anh muốn gì?Ở với tôi bấy lâu mà không hiểu ý tôi sao? Dân Nghệ An các anh chỉ thích làm loạn. Đem quân đội chống quân đội là cách bảo vệ tổ quốc hả?
Tôi thưa: Nhưng người ta đánh mình thì mình phải đánh lại chứ Tổng Thống. Chẳng lẽ để phải chết sao?
Ông quát lên: Chết thì đã sao.
Đúng, đối với ông chết thì đã sao. Nhưng đối với chúng ta thì cái chết của ông là cái chết dần của miền Nam. Ông còn nói quân đội là để bảo vệ tổ quốc chứ không phải để bảo vệ cá nhân Tổng Thống.
Ông bảo tôi liên lạc với ông Trương Vĩnh Lễ, chủ tịch Quốc Hội yêu cầu cho triệu tập Quốc Hội để ông ra từ chức trước Quốc Hội, hòng tránh cảnh đổ máu. Nhưng tôi gọi ông Lễ 4 lần không được.
Lúc ấy không phải chỉ có Lữ Đoàn xin lên tấn công tổng hành dinh của nhóm đảo chính. Mà còn có cả một đại đội biệt kích thuộc Lực Lượng Đặc Biệt đi hành quân ở Tây Ninh vừa về đến Sài Gòn cũng báo cáo là lực lượng phòng vệ của các tướng đảo chính ở Tổng Tham Mưu rất yếu, đại đội biệt kích xin phối hợp với 2 tiểu đoàn của Lữ Đoàn Phòng Vệ phủ Tổng Thống để đột kích vào bắt hết các tướng đảo chính. Tướng Nguyễn Văn Phú, lúc ấy còn là Thiếu Tá đã tiếp xúc với tôi về việc này. Nhưng như vừa nói. Tổng Thống không chấp thuận.
Viên đại úy đại đội trưởng Biệt Kích đề nghị cho lực lượng của Lữ Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống có xe bọc thép dẫn đầu tiến tới bao vây bộ Tổng Tham Mưu, còn đại đội của anh ta sẽ đột kích bọc hậu từ phía sân vận động vào bắt sống các tướng. Tôi rất buồn bực và lấy làm khó hiểu tại sao ông cụ lại không cho đánh. Ông Nhu ngồi cạnh đó cũng chẳng nói gì.
23. Hỏi: Theo ông trong số các tướng lãnh lúc ấy ai có khả năng nhất?
Đáp: Tôi hầu như không tiếp xúc với các tướng. Ngay cả Phó Tổng Thống cũng vậy. Hầu như chẳng bao giờ gặp. Nhưng tôi có nghe ông Nhu nói ông Nguyễn Văn Thiệu, lúc ấy mang lon đại tá, là một tư lệnh (sư đoàn 5) giỏi nhất. Ông Nhu có nhận xét đó sau khi nghe ông Thiệu thuyết trình ở hội trường Suối Lồ Ồ.
Còn các tướng thì rất sợ Tổng Thống Diệm mỗi khi phải thuyết trình cho ông về tình hình an ninh. Bởi vì ông nắm vững tình hình và nhất là địa hình địa vật… địa lý của từng vùng. Kiến thức về quân sự của ông cũng rất uyên bác. Tôi được biết, khi mới về nước làm thủ tướng, ông đã yêu cầu tổng lãnh sự ở Hồng Kông mua cho ông tất cả tác phẩm của Mao Trạch Đông, Chu Đức, Lâm Bưu, Bành Đức Hoài để đọc và bắt ông Nhu phân tích nghiên cứu trình lên.
24. Hỏi: Nghe nói ông bà Nhu có một biệt thự đẹp lắm ở Đà Lạt. Ông có tới đó bao giờ không?
Đáp: Ông nói đến cái biệt thự này, tôi lại nhớ tới cái ông luật sư Trương Phú Thứ ở Seattle . Ông ấy muốn tìm cách phỏng vấn bà Ngô Đình Nhu mà không sao được. Chẳng rõ tại sao ông ta biết nhà tôi, tìm đến xin tôi giới thiệu với bà Nhu. Tôi biết đã từ lâu bà ấy ẩn dật không muốn báo chí nhắc tới. Nhưng tôi biết bà ấy hãy còn quyến luyến ngôi nhà hai phòng ngủ của một người Pháp, bỏ hoang đã lâu mà anh em chúng tôi hùn tiền mua cho ông bà ấy vào khoảng năm 1960, mà hông đủ tiền sửa chữa, cho nên đến khi ông Nhu bị sát hại và bà Nhu sống lưu vong, cũng mới chỉ sửa được phân nửa.
Tôi bảo ông Thứ hãy về Việt Nam, lên Đà Lạt chụp ảnh ngôi nhà ấy rồi mang theo sang Pháp, tìm cách đưa tấm hình đó tận tay bà Nhu thì may ra bà ấy cho gặp. Thì quả thật chắc ông đã biết, ông Thứ đã viết một bài cho tờ Văn Nghệ Tiền Phong nói về bà Nhu ở tuổi gần bát tuần sống như một nhà tu ở Paris. Tôi mong ông Thứ có dịp phổ biến tấm hình này để độc giả thấy cái “ngôi biệt thự xinh đẹp” của ông bà Nhu.
25. Hỏi: Thống tướng Maxwell Taylor, Đại sứ Frederick Nolting và nữ ký giả Marguerite Higgins đều nói được Tổng Thống Diệm tiếp hơn kém khoảng 5 giờ đồng hồ. Ông có biết điều đó và có ý kiến gì không?
Đáp: Lúc ấy nhiều người nói tổng thống tiếp khách lâu quá. Tôi có trình ông, bảo người ta phê bình tổng thống độc thoại!
Ông cười. Ông bảo: Người Mỹ họ ít hiểu về dân tôc mình về lịch sử của nước mình. Mình phải lợi dụng lúc họ chịu nghe để nói cho họ hiểu chứ. Mấy người này đều chăm chú nghe tôi và đặt nhiều câu hỏi. tôi phải trả lời cho họ chứ.
26. Hỏi: Gần ngày đảo chính Tổng Thống có mời ông bà Đại Sứ Mỹ lên Đà Lạt nghỉ tại biệt điện của Tổng Thống và dự dạ tiệc thân mật. Ông có biết họ thảo luận về việc gì không?
Đáp: Tôi có biết và nhớ là Tổng Thống đề nghị chính phủ Mỹ thông cảm những khó khăn của miền Nam và đừng ép ông phải cải cách gấp rút. Ông cũng hứa sẽ xem xét những đề nghị của chính phủ Mỹ một cách nghiêm chỉnh. Nhưng cần phải có thời gian. Phía ông Lodge thì nằng nặc đòi Tổng Thống phải đưa ngay ông Nhu ra ngoại quốc. Nhưng dĩ nhiên không bao giờ Tổng Thống nhượng bộ điều này được.
27. Hỏi: Xin ông tha lỗi, ông là Phật tử chứ ạ? Và trong vụ Phật Giáo có ai nhờ ông làm trung gian để thương lượng giàn xếp giữa chính quyền và bên Phật Giáo đấu tranh không?
Đáp: Phải, tôi là Phật tử đã quy y… – Ông vào phòng lấy ra một cuộn giấy mở cho tôi thấy tờ PHÁI QUY Y rồi nói tiếp – Tôi quy y với thầy Thích Minh Châu. Khi vụ Phật Giáo xảy ra tôi có ra Huế gặp thầy Thích Trí Thủ để nhờ thầy can thiệp với Thượng Tọa Thích Trí Quang… nhưng Hòa Thượng Trí Thủ nói bây giờ các thầy trẻ học thức nhiều, họ có đường lối riêng, các sư già chúng tôi nói họ không nghe. Nên không kết quả. Nhiều người khác cũng can thiệp nhiều ngả khác, cũng không hơn gì. Hồi ấy còn cả một ủy ban của chính phủ gồm nhiều Phật tử đứng đầu là phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ cố gắng dàn xếp. Nhưng bên Phật Giáo tranh đấu chỉ muốn lật đổ chính phủ thôi. Nên họ cố đưa ra những yêu sách không cách nào làm được. Tôi rất ân hận là không giúp gì được với tư cách là một Phật tử.

28. Hỏi: Theo ông thì ai cố ý giết hai ông?
Đáp: Theo tôi thì người ra lệnh trực tiếp là tướng Dương Văn Minh. Còn ông Minh có nhận lệnh ở trên nào không thì không biết. Sở dĩ tôi dám quả quyết ông Minh, là vì chính ông Minh sai cận vệ của ông ta là đại úy Nguyễn Văn Nhung cùng đi với tướng Mai Hữu Xuân, để “thi hành nhiệm vụ”(!). Và Nhung đã leo lên xe bọc thép trong đó có hai anh em Tổng Thống. Nhung là một tay giết người không gớm tay, y còn khắc dấu vào cán dao găm mỗi lần giết được một người. Ngay tối mồng hai y còn khoe “con dao lịch sử” của y với con của tướng Đôn cơ mà. Đó là theo chính lời của tướng Đôn thuật lại trong Việt Nam Nhân Chứng. Còn tướng Xuân thì khi “đi đón ông cụ” về và ông cụ đã chết rồi, đã tới trước Dương Văn Minh giơ tay làm dấu, miệng nói: “Mission accomplie” (Nhiệm vụ hoàn thành).Cứ theo những lời trên của tướng Đôn, thì không nghi ngờ gì người chủ trương và ra lệnh giết hai ông là tướng Big Minh.
29. Hỏi: Thời gian quấy rầy ông đã quá dài. Nhất là trong lúc ông còn bịnh nhiều. Xin cám ơn ông đã mất công trả lời những câu hỏi của chúng tôi. Và nếu có thể được xin ông cho một cảm tưởng chung về Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu.
Đáp: Tôi cũng xin cám ơn ông đã tốn công đi từ xa đến để cho tôi được có dịp nói lên vài điều trong số những gì mình còn nhớ được về thời gian dài phục vụ Đất Nước bên cạnh hai nhân vật lịch sử mà tôi hằng kính mến. Cứ mỗi lần nhớ đến hai cụ, tôi đều ngậm ngùi xót xa. Nhất là đối với cụ Diệm. Ông quá ngay thẳng, quá quân tử, quá rộng lượng, lúc nào cũng nghĩ tới làm cho dân được ấm no hơn. Vậy mà người ta nỡ hãm hại ông. Không phải chỉ có những ngày giỗ hai ông tôi mới khóc.
Cụ Vỹ dằn cơn xúc động bắt tay tôi khi tôi từ biệt ra về...
(1) Như đã trình bày trong bài “Ba giờ nghe một nhân chứng”.


LÝ ĐẠI NGUYÊN
OBAMA KÊU GỌI RÚT TỪ BÀI HỌC VIỆT NAM
PANETTA CẢNH GIÁC TRUNGCỘNG TRỖI DẬY
Nhân ngày lễ Chiến Sĩ Trận Vong 28/05/2012 được tổ chức trọng thể tại Washington, trước bức tường đá đen ghi tên hơn 58 ngàn quân nhân Hoakỳ hy sinh tại chiến trường Việtnam. Lần đầu tiên sau 50 năm tính từ ngày Hoakỳ dấn thân vào cuộc chiến Việtnam, tổng thống Mỹ, Barack Obama khẳng định: “Cuộc chiến tranh này là trang sử đau buồn nhất của Hoa kỳ”. Ông phê phán thái độ của nước Mỹ đón tiếp và đối xử tệ bạc với người lính từ Việtnam trở về là một “điều sỉ nhục quốc gia”. Tổng thống Obama nhận định: “Quý vị thường xuyên bị chỉ trích vì tham gia vào một cuộc chiến không do quý vị phát động. Lẽ ra, quý vị phải được tuyên dương vì phụng sự đất nước mình trong vinh dự”. “Điều sỉ nhục này lẽ ra không được xẩy ra”. Ông hứa: “sẽ làm mọi cách để không bao giờ tái diễn”. Ông nói: “Nhân ngày tưởng niệm này, phải nhắc lại những yếu tố đoàn kết của người dân Mỹ, trong đó có việc vinh danh chiến binh phực vụ tại Việtnam và không quên bài học này”. Ông cam kết: “Một khi Hoakỳ gửi con dân của mình đối đầu với nguy hiểm, chúng ta phải giao cho họ một nhiệm vụ rõ ràng, một chiến lược chắc chắn, những phương tiện cần thiết để hoàn thành sứ mệnh”.
Khi Hoa kỳ dấn thân vào cuộc chiến Vìệtnam thì chính quyền Mỹ cũng đã nêu rõ danh nghĩa của cuộc chiến đó là “Chống Cộng Sản. Bảo Vệ Tự Do cho Miền Nam Việtnam”,cùng với những phương tiện tối tân cần thiết để chiến đấu. Dư luận Hoakỳ, Quốctế, Việtnam và những chiến binh Mỹ đã hy sinh tại chiến trường Việtnam trước khi lìa đời cũng đinh ninh như vậy. Nhưng tất cả đều mù tịt về chiến lược toàn cầu của cuộc chiến có tên gọi là Việtnam, nó không phải vì Việtnam, không thu hẹp tại Việtnam, không phải là chống cộng để bảo vệ tự do cho Việtnam, mà Việtnam chỉ là “quân cờ thí” và những chiến binh Mỹ tham chiến, bị chết tại chiến trường Việtnam là những người đã hy sinh cho chủ trương “Đánh Tan Thế Giới Cộng Sản” của Hoakỳ. Bởi vậy khi Hoakỳ đã đẩy Trungcộng vào thế đối đầu với Liênxô không đường quay lại, tổng thống Mỹ, Nixon bắt tay với Mao Trạch Đông tại Bắckinh, ngày 21/02/1992, và ký Thông Cáo Chung Thượng Hải với Chu Ân Lai thủ tướng Trungcộng, ngày 28/02/1992, thì cuộc chiến tranh nóng tại Việtnam hết tác dụng. Nước Mỹ bỏ rơi đồng minh Việtnam Cộnghòa vào ngày 30/04/1975, nhận lấy điều sỉ nhục là trao toàn thể Việtnam cho Việtcộng. Nhưng lại biến Việtcộng thành công cụ cho một cuộc chiến mới có tên là “Huynh Đệ Cộng Sản Tương Tàn”. Liênxô sụp đổ năm 1991, Thếgiới cộngsản tan thành mây khói. Trungcộng, Việtcộng “hình thì còn bụng đã chết từ lâu”. Tất cả đều ngoan ngoãn, tự nguyện từ từ chui vào chiếc rọ “kinh tế thị trường” của tư bản. Rồi vì ngu si, ngoan cố, bè cánh, gian dối, thối nát, tham nhũng, nên sớm muộn gì cũng bị rơi vào cảnh tự diệt. Người Mỹ và toàn thể Thếgiới đều nhận ra như vậy. Đây là lý do để tổng thống Obama tán dương sự cống hiến của cựu chiến binh tham chiến ở Việtnam. Tuy thế, đối với người Việtnam và dư luận quốctế, thì khi nào chế độ CộngSản còn tồn tại ở Việtnam thì nước Mỹ vẫn còn mang món nợ tinh thần với lịch sử loài người.
Chính vì vậy, lần này Hoa kỳ quyết tâm “Quay lại Á châu”. Nghĩa là muốn “gửi con dân mình đối đầu với nguy hiểm” “…phải giao cho họ một nhiệm vụ rõ ràng, một chiến lược chắc chắn”…Nên giới lãnh đạo Mỹ, từ tổng thống, tới bộ trưỡng ngoại giao, quốc phòng đều nhắc đi nhắc lại đó là: “Quyền lợi của Quốcgia Hoakỳ”. Đã là quyền lợi của quốc gia Hoakỳ, thì toàn dân Mỹ phải có trách nhiệm bảo vệ. Không còn phải là cảnh ‘ăn cơm nhà, vác ngà voi’ nữa. Ngày 29/05/12, bộ trưởng quốc phòng Mỹ, Leon Panetta, trong một bài phát biểu trước chuyến công du châu Á, với điểm dừng chân ở Singapore, Việtnam và Ấnđộ, nói rằng: “Tương lai của Mỹ tuỳ thuộc vào việc bảo đảm an ninh từ Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương”. “Hoakỳ sẽ tái phát triển sức mạnh hải quân của mình ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và sẽ cảnh giác trước sức mạnh quân sự ngày càng tăng ở Trungquốc”. Nói với các đồng minh của mình, ông Panetta đặc biệt khuyên: “Chúng tôi cần các bạn củng cố mối quan hệ quốc phòng đối với Trungquốc. Quân đội Trungquốc đang lớn mạnh và hiện đại hóa”. Nhưng. “Chúng ta phải cảnh giác. Chúng ta phải hùng mạnh. Chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng để đối mặt với bất cứ thách thức nào”. “Tuy nhiên điều quan trọng nhất ở khu vực này là phát triển một kỷ nguyên hợp tác quân sự mới giữa các nước, mà trong đó quân đội các nước chúng ta sẽ cùng nhau chia sẻ gánh nặng an ninh để thúc đẩy hoà bình ở Châu Á – Thái Bình Dương và trên toàn thế giới”.
Nói với những người vừa tốt nghiệp Học Viện Hải Quân, ông Panetta cho rằng: “Hoakỳ là một quốc gia biển và chúng ta đang trở về gốc rễ này”. “Một trong những mục tiêu then chốt mà thế hệ các bạn sẽ phải đối diện đó là duy trì và củng cố sức mạnh của Hoakỳ trên khắp các vùng biển quan trọng của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương”. “Sự thịnh vượng và an ninh của Hoakỳ gắn chặt với khả năng thúc đẩy hoà bình và an ninh của chúng ta trên một khu vực trải dài từ Tây Thái Bình Dương và Đông Á đến Ấn Độ Dương và Nam Á”. “Đó là một thực tế không thể tránh khỏi đối với đất nước và quân đội chúng ta, mà sự hiện diện đã bắt đầu mở rộng và đi vào chiều sâu trên khắp khu vực Châu Á – Thái Bình Dương”. Bộ trưởng quốc phòng Leon Panetta kêu gọi các tân sĩ quan hải quân “củng cố tình đồng minh đã có từ lâu nay với Nhậtbản, Hànquốc, Úc và Philippinnes, trong khi xây dựng mối quan hệ đối tác mạnh mẽ với các nước như Malaysia, Indonesia, Việtnam, Singapore và Ấnđộ”.
Xem vậy, Chiến Lược Toàn Cầu của Mỹ tại Châu Á - Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương đã được bộ trưởng quốc phòng Hoakỳ, Leon Panetta nói rất rõ. Đó là vì “Quyền Lợi Quốc Gia Hoakỳ”, không nhân danh bất cứ lý tưởng hão huyền nào khác. Không coi bất cứ thế lực quốc tế, hay một quốc gia nào là đối thủ phải tiêu diệt. Nhưng phải cảnh giác. Phải hùng mạnh. Phải chuẩn bị đối diện với bất cứ thách thức nào. Cụ thể là sự trỗi dậy của sức mạnh quân sự Trungcộng, khi nước này vẫn còn nuôi tham vọng “Đế Quốc Bành Trướng”. Tuy nhiên chiến lược mới của Mỹ không buộc các nước đồng minh hay đối tác của mình phải coi Trungcộng là kẻ thù không đội trời chung, mà muốn “các bạn củng cố mối quan hệ quốc phòng với Trungquốc” trong thế mạnh. Điều đáng buồn cho Việtnam là bọn Việtcộng đang tiếm quyền tại Việtnam hiện nay, vừa muốn trở thành đối tác chiến lược của Mỹ, lại vừa chui luồn dưới nách Trungcộng để giữ quyền. Bởi vậy đã đẩy Việtnam vào thế hoàn toàn bị động. Cớ sự này, số phận Việtnam thật khó thoát khỏi bàn tay các thế lực quốc tế quyết định.
 
LÝ ĐẠI NGUYÊN
Little Saigon ngày 29/05/2012.
--

Nữ sinh gốc Việt từ chối 100.000 USD quyên góp Tuổi Trẻ
Cô này vẫn nhận số tiền quyên góp và dùng số tiền này giúp đỡ cho những người nào cùng hoàn cảnh . Ngoài ra , Quỹ tương trợ này cũng hứa sẽ giúp cho những người nào trong cảnh này với đơn xin tả rỏ sự việc đã gặp phải .
Ghi nhận qua tin tức từ sáng ngày 1/June/2012 , tv 57.( quên số sau) .

Nữ sinh gốc Việt từ chối 100.000 USD quyên góp

Tuổi TrẻTuổi Trẻ – 4 giờ trước
TTO - Daily Mail hôm 31-5 đưa tin Diane Tran - nữ sinh gốc Việt ở bang Texas (Mỹ) từng bị phạt một ngày trong tù do thường xuyên phải nghỉ học để làm thêm - đã từ chối khoản tiền cộng đồng ủng hộ.
Nữ sinh Diane Tran - Ảnh: ABC News
“Còn có nhiều trẻ em khác ngoài kia đang phải vật lộn vất vả hơn cháu”, Hãng tin ABC dẫn lời cô nữ sinh 17 tuổi.
Diane Tran hôm 23-5 từng bị phạt 24 giờ sau song sắt do liên tục nghỉ học. Tuy nhiên, sau khi thông tin này được đưa ra, hàng nghìn người đã quyên góp được tổng số tiền hơn 100.000 USD thông qua trang HelpDianeTran.com để ủng hộ cô bởi họ biết cô bé phải vất vả làm thêm để hỗ trợ gia đình.
Luật sư của cô, ông Brian Wice, cho hay Tran bị áp lực lớn vì việc làm thêm và không biết nói gì khi bị triệu tập. Cô đã không đề cập đến hoàn cảnh gia đình trước tòa.
“Cô ấy không phải kiểu người trốn học để đi chơi - ông Wice nói - Cô bé vừa làm vừa học suốt ngày đêm để giúp anh em - một việc quá sức đối với tuổi của cô”.
Sau khi cha mẹ Tran ly dị, người mẹ rời khỏi Texas, còn người cha thường đi làm tới khuya và cô bắt đầu phải làm lụng để giúp anh trai đang học ở Đại học AM và cô em gái. Sau khi ở trường từ 7g sáng tới 14g chiều, Tran làm việc toàn thời gian ở một tiệm giặt và vào ngày nghỉ cô làm thêm ở một công ty tổ chức đám cưới. Tuy vậy, cô luôn đạt điểm cao tại Trường Willis, bang Texas.
Tran thường nghỉ 3 ngày mỗi tháng do kiệt sức. Theo luật của bang Texas, học sinh không được phép nghỉ hơn 10 ngày trong vòng 6 tháng. Thẩm phán Lanny Moriarty từng tuyên phạt cô 100 USD và 24 giờ trong tù để làm gương cho các học sinh khác nhưng ông đã rút bản án sau khi biết hoàn cảnh của Tran.
Hiện Tran đang phấn đấu để hoàn thành ước mơ trở thành một bác sĩ.
PHAN ANH

Khoả thân phản kháng ở Cần Thơ: Những bi kịch đau lòng sẽ còn tiếp diễn

Vụ Bản (Nam Định) ngày 8/5/2012 – Ảnh: Blog Nguyễn Xuân Diện
Tôi thật sự bàng hoàng, sau đó lặng người đi, suy ngẫm, khi nhận được tin hai người phụ nữ đã khỏa thân, ngăn cản phương tiện thi công đi vào phần đất của gia đình mà trên đó họ đã sống mấy chục năm, tại Cần Thơ, trưa ngày 22/5/2012.
Phần đất của họ nằm trong khu vực cưỡng chế thu hồi cho dự án xây dựng Khu dân cư Hưng Phú, do Công ty Cổ phần Xây dựng số 8, thuộc Bộ Xây dựng làm chủ đầu tư.
Thực ra hình thức khoả thân phản kháng đòi hỏi quyền lợi, hoặc biểu lộ chính kiến chằng có gì lạ, không những được áp dụng bởi nữ giới mà cả nam giới.
Trước khi nói về sự kiện đau lòng tại Cần Thơ, chúng ta xem một số hình ảnh của hình thức phản kháng này trên thế giới. Và cuối cùng tại Cần Thơ:
Nữ hoàng Carnival Brazil Viviane Castro với hình Tổng thống Barack Obama được vẽ trên đùi trái trong lễ hội Carnival ở Sao Paulo, Brazil, ngày 21/2/2009. Chữ Bồ Đào Nha “Vendese” trên bụng của Viviane có nghĩa là “For Sale” (Ảnh: Folha Imagem, Lalo de Almeida).
Những người mẫu của Playboy Victoria Eisermann (L) và Monica Harris trong ngày “PETA World Water Day” trên Quảng trường Trafalgar tại London, Anh quốc, ngày 22/3/2011. PETA là tổ chức bảo vệ động vật nổi tiếng (Ảnh: Getty Images).
Hàng trăm gái mại dâm và chủ chứa Hàn Quốc mặc đồ lót và phủ sơn cơ thể, một số mặc đồ tang, có người đã tự thiêu không thành công, tại khu đèn đỏ ở Seoul, để phản đối sự đàn áp của cảnh sát vào nhà thổ, ngày 17/5/2011 (Ảnh: AP).
Các nhà hoạt động nhân quyền của “Anima Naturalis” chống giết động vật để làm áo khoác lông thú tại Plaza de Espana, Madrid, Tây Ban Nha, ngày 4/12/2011 (Ảnh: Getty Images).
Phụ nữ El Salvador phản đối chi phí sinh hoạt cao và chênh lệch mức sống giữa người giàu và người nghèo trong ngày Lao động Quốc tế 1/5/2011 tại thành phố San Salvador (Ảnh: AP).
Tổ chức nữ quyền Ukaine Femen phản đối Euro 2012 tạo ra điều kiện phát triển mại dâm và buôn bán phụ nữ, Kiev ngày 16/11/2011 (Ảnh: Wikimedia Commons).
Dân oan Việt Nam phản đối chiếm đoạt đất đai, tại Cái Răng, Cần Thơ, ngày 22/5/2012 (Ảnh: Blog Lê Hiền Đức):
Hai người phụ nữ Việt Nam trong tấm hình cuối, một là bà Phạm Thị Lài, sinh năm 1960, ngụ tại phường Hưng Thạnh, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ, người thứ hai là bà Hồ Nguyên Thủy, sinh năm 1979, con ruột của bà Lài, hiện đang làm kế toán ở một công ty kinh doanh vật tư xây dựng.
Như chúng ta thấy, hình thức khoả thân phản kháng khá phổ biến trên thế giới, nhưng trong thực tế không quốc gia nào khuyến khích nơi công cộng.
Tuy nhiên, trong những trường hợp với phụ nữ, ở các nước dân chủ, văn minh phương Tây, lực lượng giải tán biểu tình của nhà cầm quyền thường cố gắng tối đa để không bị dư luận cáo buộc có hành động thô bạo.
Thẳng tay đàn áp, bất kể là phụ nữ hay trẻ em, thường xảy ra ở các nước có chế độ độc tài, chuyên chế. Việt Nam là một trong số đó. Các ví dụ rất nhiều và có thể chứng minh dễ dàng qua công cụ tìm kiếm Google.
Khoan hãy nói đồng tình hay phản đối hình thức phản kháng của bà Lài và bà Thuỷ, nhìn hình ảnh những người phụ nữ trần truồng, yếu đuối và đáng thương bị kéo lê lết trên đất đá như một con vật, quả là đám vệ sĩ đã mất hết tính người!
Người có một chút lương tâm thôi sẽ đặt câu hỏi vì sao nên nỗi mà người dân phải chống lại bất công bằng cách sử dụng hình thức đau xót, xa lạ với thuần phong mỹ tục của người Việt như thế, và sẽ ý thức được hành động thích ứng của mình.
Cụ bà Lê Hiền Đức, một công dân chống tham nhũng nổi tiếng và có uy tín với đông đảo dân oan, đang quan tâm tới việc này, viết trên Blog mình:
Đang trong trạng thái “lõa thể”, bà Lài nói trong nước mắt uất nghẹn: “Đất của gia đình vợ chồng tôi dành dụm, mua bằng tiền mồ hôi nước mắt để cất nhà sinh sống, làm ruộng, trồng rau, nuôi gà… cả mấy chục năm rồi. Công ty địa ốc vào đây tự đưa ra giá rồi ép chúng tôi nhận tiền mà không cho chúng tôi quyền được thỏa thuận mua bán. Ủy ban còn hỗ trợ Công ty, dùng lực lượng Công an cưỡng chế đất tôi giao cho công ty. Chồng tôi sức yếu thế cô chỉ biết tự tử để phản đối. Giờ mẹ con tôi biết làm gì ngoài việc lột hết đồ đạc, ráng chịu nhục nhã để phản đối họ?! Nhục lắm mấy cô mấy chú ơi!”.
Tại sao những kẻ đại diện cho quyền lực, lợi ích của chế độ hôm nay lại có thể tàn nhẫn, dã man với nhân dân như thế? Trong giai đoạn còn phải ăn nhờ ở đậu vào dân, họ có vẻ thích thú hình thức này lắm cơ mà!
Tôi nhớ hồi chiến tranh chống Mỹ, những người sống ở miền Bắc kể cho nhau nghe và tự hào về “Đội quân tóc dài” ở miền Nam.Báo chí còn hả hê thuật lại những cuộc biểu tình chống chế độ Sài Gòn trong đó những người phụ nữ miền Nam “phẫn nộ không ngần ngại tụt quần trườn mặt những tên ác ôn mặt dày mày dạn làm chúng phải cúi mặt bỏ đi“.
Trong bài “Hành xử trong chế độ ta và chế độ Ngụy“, blogger Đông A mỉa mai:
Dưới chế độ Ngụy những tên ác ôn mặt dày mày dạn đã cúi mặt bỏ đi trước những người phụ nữ lõa thể, nhưng ở chế độ ta những người ngày ngày được nghe tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vẫn hăng hái xông vào lôi kéo những người phụ nữ trần truồng. Đấy là điểm khác nhau giữa chế độ ta và chế độ Ngụy. Không biết những người phụ nữ trong đội quân tóc dài ngày xưa đấy giờ ra sao, có kinh nghiệm gì truyền lại cho chị em hôm nay không và khi xuôi tay có nhắm mắt được không?“.
Không có gì chính xác hơn để xác định bản chất của nhà cầm quyền và tất cả những kẻ đang cộng sinh trên nó, là sự trở mặt và phản bội. Họ đã thực sự biến thành những con thú man rợ trong cuộc tranh giành lợi ích từ những hợp đồng mua bán đất-quyền-tiền.
Giờ đây trên đất nước Việt Nam “cả một thời đểu cáng đã lên ngôi” (thơ Bùi Minh Quốc) với “ngút trời tiếng khóc xé vành môi bà mẹ, chị em tôi, những người bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, để kiếm hạt thóc nuôi con khôn lớn đi đánh giặc giữ nước giữ làng. Giờ Làng Nước có rồi nhưng Đất lại bị đưa vào cuộc bán buôn kiếm chác của những kẻ chức quyền tham lam vô độ, vô nhân” (nhà văn Thuỳ Linh).
Đến mức một nguời đi theo Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) từ những ngày đầu, vinh dự được Hồ Chí Minh đặt cho cái tên với hai chữ “Hiền” và “Đức” (cụ Lê Hiền Đức), đã phải thốt lên:
Tình cảnh người dân Việt Nam hiện nay còn kém cả thời chịu ách cai trị của phong kiến, ách đô hộ của thực dân, phát-xít“. [5]
Nếu có một quốc gia nào giống Việt Nam thì cũng vô cùng hiếm hoi, nơi mà chỉ trong vòng 4 năm thôi (2008-2011) “đã có hơn 1,57 triệu lượt người đến các cơ quan hành chính nhà nước để khiếu nại tố cáo, với gần 673 ngàn đơn thư, trên 70% liên quan đến đất đai, còn ở Bộ Tài nguyên – Môi trường, tới 98% hàng năm.
Bất công và oán hận ngút ngàn, người nông dân phải vùng lên bằng mọi khả năng có thể của thân phân nô lệ. Tiếng súng từ Tiên Lãng (Hải Phòng), của gia đình Đoàn Văn Vươn như một chất xúc kích, chỉ trong khoảng một tháng sau, số lượt người khiếu kiệntăng 50%, số đoàn đông người tăng 30%“.
Biết bao nhiêu bị kịch đã xảy ra, máu của nông dân, trong đó có cả phụ nữ trẻ em, đã đổ xuống trên những cánh đồng. Môt số trường hợp đã tự tử vì quá thất vọng, uất ức và cùng quẫn. Mới hôm 8/5, bà con nông dân ở Vụ Bản (Nam Định) đồng loạt mang vòng tang trắng giữ đất, thì hơn hai tuần sau, ngày 22/5, vụ khoả thân ở Cần Thơ lại mang đậm màu sắc bi thương…
Trên hết mọi khía cạnh, chưa cần nói đến đúng sai của các cuộc cưỡng chế, với hàng núi đơn khiếu nại “cao hơn cả dãy Trường Sơn” từ hơn hai thập niên qua và hệ quả là “dân phải nổ súng, đặt bom, hay tự tử, lột đồ để giữ đất. Nói cách gì cũng là lỗi của chính quyền đã đẩy họ vào bước đường cùng” – Blogger Đào Tuấn viết.
Tôi đồng ý với blogger Đào Tuấn, nhưng nói “lỗi của chính quyền” là quá nhẹ! Chắc vì sống trong nước nên ông không muốn dùng ngôn ngữ mạnh hơn. Còn tôi, tôi gọi đây là tội ác của tập đoàn lãnh đạo ĐCSVN.
Trong vấn đề xây dựng và phát triển, ở quốc gia nào cũng có vấn đề tranh chấp đất đai, nhưng nơi nào nhà nước công nhận quyền tư hữu và có toà án độc lập phân xử quyền lợi khi có tranh chấp, nơi đó sẽ được giải quyết đúng pháp luật, thoả đáng với lợi ích công cộng, nhưng cũng công bằng với lợi ích của công dân.
Lấy danh nghĩa đất là sở hữu của toàn dân và thống nhất quản lý vào tay nhà nước, ĐCSVN với độc quyền cai trị, trong thực tế đã chiếm đoạt toàn bộ lãnh thổ đất nước làm của riêng cho một đảng phái thiểu số trong 90 triệu người và giữ cho mình toàn quyền ban phát lợi ích.
Cốt lõi của tất cả vấn đề nằm ở đây! Và bất công đi liền với tội ác cũng nằm ở đây!
Cỏ vẫn mọc khi chưa nhổ tận gốc. Sẽ còn nhiều nữa Tiên lãng, Văn Giang, Vụ Bản, Cần Thơ…
 
© 2012 Lê Diễn Đức – RFA Blog

No comments:

Post a Comment