Cái chết của một tôn giáo lớn hàng thứ 3 thế
giới
Vô Sắc Thiền Sư kỉnh bút.
Những người sinh từ năm 1925 đến 1945,
chắc vẫn còn nhớ những chữ không hay về giới tăng sĩ Phật Giáo như: “Sư Hổ
Mang”, “Sư nói sư phải, vãi nói vãi hay”, “Miệng Nam mô, bụng một bồ dao găm”…
Điều đó chứng minh rằng Đạo Phật đã trải qua nhiều giai đoạn trầm luân, các tu
sĩ sống xa rời lời Phật dậy, mà chỉ chiều theo nhục dục để biến thành môt loại
gọi là “Sư Hổ Mang”, một loại rắn độc, chuyên luồn sâu, núp lén để cắn người.
Khi Vua Lý Công Uẩn lên ngôi, việc đầu tiên của Ngài là thanh lọc thành phần tu
sĩ. Ai không tu hành chân chính, đều bị gọi đi lính. Sư nào gian dâm, nhũng
nhiễu dân chúng thì bị đánh đòn, đầy đi nước độc. Từ đó, đạo Phật mới khởi sắc
được một thời gian. Nhưng đến thế kỷ 20, những sa đà trầm trọng vẫn còn, nên mới
có “nhu cầu chấn hưng Phật Giáo” như trong bài viết của “Phật Giáo Nguyên Thủy”
sau đây:
“Nhu cầu chấn hưng Phật giáo được coi là thống nhất
trong giới trí thức, sĩ phu yêu nước, không phải chỉ vì lợi ích của Phật giáo,
mà trên hết là vì lợi ích của đất nước, của dân tộc:
“Các bài viết của
Huỳnh Thúc Kháng trên báo Viên Âm của Phan Khôi trên báo Tràng An đầu những năm 1930
cũng có ý kiến tương tự với quan điểm của Phan Chu Trinh khi cho
rằng chấn hưng Phật
giáo là một việc làm có lợi ích cho quốc dân.
Như vậy, việc chấn hưng Phật giáo đã
nhận được sự tán đồng của nhiều chí sĩ yêu nước đầu thế kỷ XX. Những hiện tượng
được ghi nhận trong sách Phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam
(1924 - 1954) đến nay đối với chúng ta không phải đã là chuyện dĩ vãng. Ở giới
tu sĩ Phật giáo thì: “Nhiều nhà sư đã trở thành người thầy cúng độ nhật qua
ngày, quên đi vị trí dẫn dắt tâm linh trí tuệ của mình. Chúng ta có thể thấy
rõ hiện trạng này qua sự phản ánh của nhiều người tâm huyết đối với sự
nghiệp chấn hưng Phật giáo ở Việt
Nam những năm đầu thế kỷ XX.
Trong bài Hiện
trạng Phật giáo ở xứ ta, Thanh Quang đau buồn trước hiện trạng Phật giáo nước
nhà. Ông viết: “Đau đớn thay ở
xứ ta những hạng người xuất gia vào chùa, phần nhiều chỉ học đặng vài bộ kinh,
lo nhịp hơi cho hay tập nhịp tán cho già, nay lãnh đám này, mai lãnh đám khác,
cũng tràng hạt, cũng cà sa, thử lật mặt trái mà xem thì có khác nào người trần
tục ở trong Phật giáo, họ tưởng học thế là đủ rồi, nói bậy nói càn quên mất giá
trị, hoặc có người hỏi đến Phật pháp là gì, ôi tuyệt nhiên không biết. Thật là
một điều tai hại rất lớn trong Phật giáo vậy””
Sách Phong trào
Chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam (1924 - 1954) cũng dẫn lại lời Dương Bá
Trạc (báo Đuốc Tuệ, số 101, 1939): “Các vị đại đức, các vị trưởng lão
cũng chẳng có pháp lực gì đối với sư bác, sư ông. Người có học lực, có giới hạnh
với người không giới hạnh cũng chẳng hơn kém gì nhau miễn ai khéo luồn lỏi, xu
phụ thì được địa vị tốt, bổng lộc nhiều, mà ai vụng luồn cạnh chiều lòng thì
phải địa vị xấu, bổng lộc kém. Chữ thánh hiền chúng vùi sâu xuống đất, nghĩa lục
hòa lại biến ra tro, thậm đến nỗi giành chùa giành chỗ, ghen ghét cùng nhau,
khích bác cùng nhau, oán phẫn cùng nhau. Người lớn không thương yêu người nhỏ,
người dưới không kính nể người trên, người có không giúp đỡ người không, người
khôn không bảo ban người dại, người đắc thời đắc vị không bênh vực người cô cùng
hèn yếu, người lão thành tôn trưởng không trông nom người nhỏ bé thơ ngây, đối
đãi với nhau cũng bỉ thử nhân ngã quá kẻ Việt người Tần, gặp sự khốn ách hoạn
nạn của nhau cũng cái lối làng xóm cháy nhà bằng chân như vại. Những xú kịch,
thảm kịch đáng thương, đáng bỉ xảy ra thường thường, không sao kể
xiết…”.
Cùng với ý kiến của
Dương Bá Trạc, quyển sách cũng trích dẫn nhân định của Thiều Chửu: “… Chính vì vậy, một hệ quả tất yếu
là xuất hiện những nhà sư chất lượng kém, vi phạm giới luật. Họ lảng tránh việc
hoằng dương chính pháp, hoằng pháp lợi sinh, chủ yếu kiếm sống bằng việc thực
hiện những nghi lễ tôn giáo mang nặng tính chất mê tín, buôn Thần bán Phật,
khiến dân chúng phê bình Phật giáo là “Miệng Phật tâm xà”, “Miệng nam mô, bụng
một bồ dao găm”. Thực tế này khiến cho thế gian không mộ Phật, không kính
Tăng”.
Tình trạng được
ghi nhận ở trên, đến nay, sau gần một thế kỷ, rất tiếc vẫn chưa phải là chuyện
khó tìm, nhất là ở các chùa quê. Một bộ phận không nhỏ Phật giáo Việt Nam vẫn
mang nặng màu sắc mê tín, cúng bái, lễ lạy, người Tăng sĩ vẫn là thầy tụng
đám.
Nhìn lại lịch sử của
Đạo Phật theo “giacngo.vn/lichsu/phatgiaovietnam”, thì biết rằng Đạo Phật truyền đến Việt
Nam vào khoảng đầu thế kỷ thứ Nhất. Đến cuối thế kỷ thứ hai, Việt Nam đã thành
lập được một trung tâm Phật Giáo quan trọng trong vùng, thường được gọi là trung
tâm Phật Giáo Luy Lâu, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh, phía bắc thành phố Hà Nội. Luy
Lâu là thủ đô của xứ Giao Chỉ, tên cũ của Việt Nam, và là một trạm nghỉ chân
quen thuộc của các nhà truyền giáo đạo Phật người Ấn Độ, trên hành trình sang
Trung Hoa theo đường biển của các thương gia Ấn đi từ bán đảo Ấn Độ. Một số kinh
điển Đại Thừa và A-hàm đã được dịch sang Hoa văn tại đó, chẳng hạn như kinh Tứ
Thập Nhị Chương, An Ban Thủ Ý, Kinh Bổn Sanh, Kinh Mi-lan-đa Vấn Đạo, v.v.
Trong 18 thế kỷ kế tiếp, vì điều kiện
địa lý gần Trung Hoa và hai lần lệ thuộc xứ nầy, Việt Nam và Trung Hoa có chung
nhiều sắc thái di sản văn hóa, triết học và tôn giáo. Phật Giáo VN phản ánh
nhiều ảnh hưởng của các phát triển hệ Đại Thừa tại Trung Hoa, với các tông phái
Thiền, Tịnh và Mật.” Sau khi đến Việt Nam, đạo Phật phát triển rất nhanh, vì hồi
đó, Việt Nam chỉ có một số người theo đao Lão, đạo Khổng, một số theo Mặc Tử là
một thứ tôn giáo khắc nghiệt, chú trọng vào hình phạt mà không dung thứ. Cho
nên, đạo Phật được yêu mến và chấp nhận trong hầu hết mọi gia đình,cho dù không
quy y Tam Bảo, không cạo đầu xuất gia. Các Vua Quan tuy có người không theo đạo
Phật nhưng vẫn kính trọng Tăng, Ni và chùa chiền. Đặc biệt là các triều vua Lý
cho tu sửa rất nhiều chùa, chiền, nên Phật Giáo thịnh hành từ Nam chí Bắc.
Lý do mà đạo Phật
phát triển mạnh mẽ như vậy là vì tôn chỉ và giáo huấn của Đức Phật đã dẫn con
người sống hiền hòa, tự tu, tự tỉnh, tự giác, tự ngộ. Trong Net của “loiphatday.org”, người ta thấy:
Phật bảo Thiện Sinh:
“Nếu trưởng giả hay con trưởng giả nào
biết tránh bốn nghiệp kết không làm ác theo bốn trường hợp và biết rõ sáu nghiệp
hao tổn tài sản. Như thế, này Thiện Sinh, nếu trưởng giả hay con trai trưởng giả
nào tránh được bốn việc ác là lễ kính sáu phương”
Bốn nghiệp kết mà Phật dạy: Sát sinh, trộm cắp, dâm dật, vọng ngữ, đây là
bốn điều xấu ác mà bất cứ ai cũng nên tránh, hàng ngày đọc báo chúng ta vẫn
thường thấy nhan nhãn các tội phạm phạm bốn điều trên: giết người, cướp của… gây
cho xã hội những bất an thường nhật. Rõ thấy, những điều mà Phật dạy chẳng có gì
khác ngoài những chuyện thực thường ngày ở thế
gian.
Bốn trường hợp ác: tham dục, sân hận, sợ hãi, ngu si. Về tham dục, không
phải cứ tham dục là điều xấu, mà tham dục cần phân biệt có hai loại, loại tham
dục phục vụ ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy) khiến cho tâm trí mê mờ, dẫn
đến những vọng tưởng điên đảo, sân hận, sợ hãi và ngu si… loại tham dục này thì
cần phải loại bỏ, loại tham dục thứ hai phục vụ cho chánh kiến, chánh tư duy,
chánh nghiệp… cho sự học hành, phát triển nhân cách, tinh thông trí tuệ, nâng
cao dân trí, sự phồn thịnh xã hội, sự bình an, sự hạnh phúc..thì cần thực hành
và phát huy.
Mười bốn điều Phật dậy được loan truyền
nhiều nhất là:
Kẻ thù lớn nhất của
đời người là chính mình
- Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá
- Thất bại lớn nhất của đời người là tự đại
- Bi ai lớn nhất của đời người là ghen tị
- Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất mình
- Tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu
- Đáng thương lớn nhất của đời người là tự ti
- Đáng khâm phục lớn nhất của đời người là vươn lên sau khi ngã
- Phá sản lớn nhất của đời người là tuyệt vọng
- Tài sản lớn nhất của đời người là đạo đức
- Món nợ lớn nhất của đời người là tình cảm
- Lễ vật lớn nhất của đời người là khoan dung
- Khiếm khuyết lớn nhất của đời người là kém hiểu biết
- An ủi lớn nhất của đời người là bố thí
Quan trọng hơn hết là Bát Chánh Đạo:
Chánh kiến (quan niệm xác đáng về Tứ Diệu đế), Chánh Tư duy (suy nghĩ đứng đắn),
Chánh Ngữ (không nói láo hay lời phù phiếm), Chánh Nghiệp (tránh phạm giới
luật), Chánh tinh tiến ( Phát triển nghiệp tốt, diệt nghiệp xấu), Chánh Mệnh
(tránh các nghề nghiệp sát sinh, buôn vũ khí), Chánh Niệm (Thần, Khẩu, Ý), Chánh
Định (tư tưởng và hành động ổn định).
Về tương giao giữa tu sĩ và cư sĩ. Phật dậy:
Ðáp lại, người tu sĩ vốn là vô sản, trọn ngày chỉ
học Phật Pháp, khất thực và hành Thiền định, chỉ có trao cho người cư sĩ tấm
lòng từ mẫn, lân mẫn, các hiểu biết về các pháp, và giới thiệu các cư sĩ con
đường chân chính đoạn khổ, xây dựng hạnh phúc ở đời. Tương hệ này là đầy tình
đạo và tình người.
Vị tu sĩ chỉ trao truyền kiến thức và kinh nghiệm tu
tập cho các phật tử, cung cấp các kiến thức, trao truyền năm giới, mười giới,
bát quan trai giới, và khích lệ các phật tử giác tỉnh vô thường mà phát khởi
tinh tấn tu tập.
Vậy mà, thực tế, thì sao? Các tăng ni thời
nay thực hành đạo như thế nào? Có theo lời Phật dậy hay đang “sát Phật” trong
tâm tư?
Quay lại bối cảnh gần đây nhất
từ năm 1963, những tăng sĩ đứng hàng lãnh đạo Giáo Phẩm, như Thích Trí Quang,
Thích Quảng Độ, Thích Huyền Quang, Thích Minh Châu, Thích Tâm Châu, Thích Đôn
Hậu… hành xử như thế nào trong tấm áo cà sa: Thích Trí Quang tổ chức Phật Giáo
Quyết Tử đi bắt người, đánh người, giam người rồi ra lệnh kéo bàn thờ Phật xuống
đường để chống chính phủ, có nơi dựng bàn thờ Phật trên bãi rác. Hồi đó, Thích
Quảng Độ còn là Đại Đức thuộc nhóm Ấn Quang cũng chống chế độ tích cực. Nhóm
Trần Quang Thuận thì hô hào Thánh Chiến, chống chế độ, chích thuốc cho Thích
Quảng Độ không chống cự, rồi cho đổ xăng lên người và châm lửa. Có giai đoạn cho
Phật Tử xuống đường ở Saigon, phong bế các ngã tư, săn tìm thanh niên Công Giáo
để đâm, đánh. Ở Đà Nẵng thì cho Phật Tử Cứu Quốc ào vào Thanh Bồ, Đức Lợi giết
người, đốt nhà. Trong hàng ngũ Phật Giáo với nhau cũng thanh toán nhau ác liệt.
Thích Trí Quang và đệ tử có giai đoạn
cho người săn bắt và giết Thích Tâm Châu, khiến Thích Tâm Châu phải trốn vào một
ngôi chùa nhỏ xíu ở Phan Thanh Giản. Các lãnh tụ Phật Giáo tranh dành nhau Việt
Nam Quốc Tự đến đánh nhau đổ máu, đúng với lời Phât như
sau:
“Có một số
Sa-môn,
Cùng với
Bà-la-môn,
Họ chấp trước,giành
giật,
Trong các luận thuyết
này,
Họ tranh luận tranh
chấp,
Họ nhìn chỉ một phía.”
Ngoài ra, các sư còn có vợ con đùm đề: THÍCH VIÊN LÝ, THÍCH NHẤT
HẠNH, THÍCH QUẢNG ĐỨC, THÍCH ĐÔN HẬU, THÍCH HÔ. GIÁC, THÍCH CHÁNH LẠC, THÍCH
PHÁP NHẪN...,Thích Tâm Châu thì có vợ và một bà bồ ở Vũng
Tầu, được bà bồ nhí dựng cho một am ở ngay trên đầu một khách sạn trên bãi
trước, ngày ngày du hí với nhau. Thích Trí Dũng, chùa Nghĩa Trang Bắc Việt có
tới 2 bà vợ. Dân Saigon không ai không biết các Thầy luôn đi Peugoet 404, 405
mới tinh láng cóng, trong xe trướng rủ, màn che, các Thầy ngồi với các bà bảo
trợ trong xe, chả ai biết làm cái gì.
Sau khi giết chết Tổng Thống và hai
người em, Đại Tá Hồ Tấn Quyền,Tư Lệnh Không Quân, Đại Tá Tư Lệnh bảo vệ Tổng
Thống Phủ và người em vào năm 1963, các Thầy tung hoành quyền lực vô số, nên
ngang nhiên chứa gái trong Chùa. Đến chùa Ấn Quang, đi ra phía sau, sẽ thấy có
một hành lang dài, hai bên là hai dẫy phòng, có tường thấp vừa đủ che đầu, và có
cửa là tấm vải xanh lè, đằng sau tấm vải là những tiếng cười khoái trí của các
bà. “Đừng, Thầy ơi! Kỳ quá!.. hích hích…” Phạm Sát Giới, giết người xong rồi
cũng bỏ chay sắc dục luôn.
Nói qua về chính trị Phật Giáo hồi đó,
nếu Thích Trí Quang là người tu sĩ chân chính, sống chết vì đạo pháp, sao lại
chạy vào tòa Đại Sứ Mỹ, núp trong đó, để yêu cầu người Mỹ bảo vệ mình? Sau khi
nhận được lời cam kết của người Mỹ với trao đổi nào đó, thì Trí Quang ra ngoài
tung hoành như lãnh chúa. Ai không theo mình thì hạ luôn. Thích Đôn Hậu còn lộ
nguyên hình là cán bộ nằm vùng của Cộng Sản, khi bị lộ thì trốn luôn theo Việt
Cộng, rồi giữ chức Phó Chủ Tịch Quốc Hội, Phó Chủ Tịch Mặt Trận Tổ Quốc là hang
ổ Cộng Sản.
Ngày nay, thì Phật giáo thê lương hơn.
Ở Việt Nam, nếu không là Thượng Tọa, Hòa Thượng Quốc Doanh, để nhận Huân chương
Hồ Chí Minh thì bị diệt, hoặc vô tù, hoặc bị giết chết trong tù. Còn ở hải ngoại
thì có chiến dịch xây Chùa, thi nhau xây Chùa lớn, Chùa to, khánh thành rực
rỡ.
Chùa Khánh Anh ở Paris tốn khoảng 20
triệu đô la, ai cũng biết. Chùa Viên Giác ở Tây Đức cũng xấp xỉ 18 triệu đô la,
trong Chùa còn có khách sạn dành riêng cho các công an giả dạng sư từ Việt Nam
sang. Ở Quận Cam, tiểu bang California cũng tưng bừng xây Chùa. Chùa Bảo Quang
của Thầy Thi Sĩ Quảng Thanh tốn sơ 5 triệu vì thuê thợ Tầu sang, mang gổ Thái
Lan, gỗ Tầu sang. Chùa của Thầy Minh Mẫn, xây sớm hơn, nên chỉ tốn hơn 3 triệu
đô. Đặc biệt là Thầy sử dụng một đội ngũ sư nữ để làm việc Chùa, không có Sư
nam. Mỗi dịp Tết là Thầy hốt bạc với chương trình ca vũ nhạc ngay trong Chùa.
Lời Phật dậy:
"Trong đêm nay và ngày nay, ta
nguyện sống tránh xa không xem múa, hát, nhạc, diễn kịch, không trang sức bằng
vòng hoa, hương liệu, dầu thoa và các thời trang..." (Tăng chi bộ, chương
Tám pháp).
Này các tỳ-khưu, đây là năm điều bất
lợi khi ngâm nga giáo pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài. Này các tỳ-khưu,
không nên ngâm nga giáo pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài; vị nào ngâm nga
thì phạm tội dukkata (tác ác) – (Luật tạng, Tiểu phẩm).
Nói chung, là không ca hát hoa hòe hoa sói,
không diễn tuồng ngân nga. Nhưng các Thầy vẫn tổ chức đều chi để kiếm lợi. Nhiều
Thầy còn lên sân khấu hát nhạc diễu nữa. Mới đây, một nhóm ni cô ở Việt nam mặc quẫn áo bộ đội,
cầm súng múa hát, sau khi đã thay đồ trang phục như điếm già múa quạt, lượn qua
lượn lại. Ổ Việt Nam, ai cũng biết vụ Đàm
Vĩnh Hưng hôn môi Thầy Chùa say đắm!
Còn biêt bao vụ
như Thích Pháp Châu, Chùa Việt Nam (nay thành chùa Quán Âm) đi chơi gái bị gái
thu băng đòi tiền! Chùa Việt Nam cũng là nơi ổ đài phát thanh Cộng Sản do luật
sư lỡ thời Phùng Tuệ Châu điều hành. Vụ Thích Trí Tín mới đây ở với vợ 2 con, Vụ
Thích Hộ Giác, Thích Chánh Lạc.. là những vụ nổi tiếng về sự bê bối. Thích Viên
Lý có phen phải ra hầu tòa…
Gần đây, trong buổi lễ gọi là Tưởng
niệm Pháp Nạn 1963, để vinh danh Thích Quảng Đức, thì cư sĩ Huỳnh Tấn Lê, chủ
tịch Tổng Hội Cư sĩ, phát biểu chửi chế độ Ngô Đình Diệm tơi bời, cho là Tổng
Thống Diệm giết nội miền Trung hơn 300,000 Phật Tử, chưa kể miền Nam. (Cũng y
như vụ Thích Nhất Hạnh, hồi còn là Thượng Tọa, đã bỏ ra một số tiền khổng lồ là
100,000 đô đăng báo, chửi Mỹ Ngụy và vọng ngữ cho là Mỹ Ngụy đã bỏ bom giết chết
hết 300,000 người dân Bến Tre!) Vụ tưởng niệm Pháp Nạn này là một chuỗi dài nối
tiếp với việc Cộng Sản Việt Nam hiện đang cho xây đài tưởng niệm Thích Quảng Đức
và chửi chể độ Diệm. Các buổi lễ ở Việt Nam, California và Úc nằm trong một hệ
thống làm việc chặt chẽ, kẻ tung ở quốc nội, thì có người hứng ở hải ngoại.
Ăn uống thì sao? Thầy nào cũng có sư
nữ đứng hầu, chờ Thầy dùng xong một bát là đón lấy, xới cơm rồi dâng lên cho
Thầy. Đi xe thì đi xe láng, có tài xế, có cận vệ. Nói về nghi thức, các Thầy hay
tổ chức cầu cho “Cửu Huyền Thất Tổ”, Chín đời, tám tổ để lấy tiền Phật Tử. Đã
chết 9 đời rồi, đã đầu thai đi khắp nơi rồi, có thể thành con bò, con trâu rồi,
bây giờ không lẽ chỉ vì vài tiếng kinh kệ, một mớ tiền dâng cúng, thì các tổ kia
sẽ được Ngọc Hoàng Thượng Đế thương tình mà cho tái sinh chăng? Trong nhiều buổi
lễ, nhất là tang lễ, Thầy Chủ Trì mặc áo như Đường Tam Tạng, múa gậy Phương
Trượng, đi vòng quanh quan tài, và rẩy nước Thánh, chẳng khác gì thầy bùa, thầy
pháp! Thiền Sư Nhất Hạnh thì chuyên môn tổ chức tu thiền để lấy tiền chúng sinh,
giao cho vợ thầy là Ni cô Cao Ngọc Phượng, tự là “Chân Không”, (chân không nhưng
túi đầy tiền), và còn tổ chức Thiền Ôm để móc túi dân Tây nữa.
Như vậy, đạo Phật còn hay mất? Người
ta không thể nào nói đạo Phật còn, vì từ tăng ni xuống tới Cư sĩ, đều thể hiện
“tham, sân, si”, tham dục, vọng ngữ, ác ngữ, ác tâm, ác hạnh. Chưa kể một lô
những kẻ xưng là Trần Chung Ngọc, Nguyễn Mạnh Quang thuộc nhóm
Giao Điểm gồm có Đao Phủ Nguyễn Đắc Xuân, và Hoàng Phủ Ngọc Tưởng, những kẻ giết
người không gớm tay ở Huế. Dưới trướng của chúng có Trần Quang Diệu, Trần Tiên
Long (tức Trần Văn Quý), Hòa Bình (tên chuyên viên chuyển thư chống Công Giáo),
Giác Hạnh, và một danh sách dài những tên đốn mạt chuyên chửi tục hơn hàng tôm,
hàng cá trên diễn đàn, dưới danh nghĩa là Phật Tử.
Đạo Phật, một tôn giáo lớn hàng
thứ ba trên thế giới đã chết ở Việt Nam và trong công đồng hải ngoại.
Nghiệp làm không chánh thiện,
Làm rồi sanh ăn năn,
Mặt nhuốm lệ, khóc than,
Lãnh chịu quả dị thục…..
Làm rồi sanh ăn năn,
Mặt nhuốm lệ, khóc than,
Lãnh chịu quả dị thục…..
Tỷ kheo, tát
thuyền này,
Thuyền không, nhẹ đi mau.
Trừ tham, diệt sân hận,
Tất chứng đạt Niết Bàn.
Thuyền không, nhẹ đi mau.
Trừ tham, diệt sân hận,
Tất chứng đạt Niết Bàn.
Vô
Sắc Thiền Sư.
Viết trong mùa Pháp Nạn 1963-2013.
No comments:
Post a Comment