Sunday, August 25, 2013

TẤN CÔNG TOÀN CẦU THẦN TỐC CỦA MỸ

TẤN CÔNG TOÀN CẦU THẦN TỐC CỦA MỸ

Jane | August 17, 2013 10:21 am
TẤN CÔNG TOÀN CẦU THẦN TỐC CỦA MỸ
tka23 post

Tấn công thần tốc toàn cầu” bằng vũ khí phi hạt nhân của Mỹ , sẽ tiêu diệt mục tiêu ở bất cứ điểm nào trên phạm vi toàn cầu,  trong thời gian  1 giờ.
Do những thâm hụt và khủng hoảng ngân sách, Mỹ có thể sẽ cắt giảm các khoản chi tiêu dành cho quốc phòng. Nhưng sẽ rất sai lầm nếu cho rằng, từ những cắt giảm đó, sức mạnh quân sự Mỹ sẽ yếu đi. Quân đội Mỹ đang cố gắng giảm thiếu các chi phí thông thường, nhưng lại tăng cường các khoản đầu tư ngân sách kỷ thuật mới.
Trên thực tế, Mỹ đã chi một khoản ngân sách rất lớn nhằm phát triển chương trình “Đòn tấn tấn công thần tốc toàn cầu” (Prompt Global Strike – PGS). Đây là hệ thống  tấn công bằng vũ khí phi hạt nhân,  tiêu diệt mục tiêu ở bất cứ điểm nào trên phạm vi toàn cầu trong thời gian giới hạn 1 giờ. Đây là chương trình có tên gọi DARPA Falcon Project (Falcon HTV-2). Số lượng các loại vũ khí này trong kho vũ khí chiến lược Mỹ ngày càng tăng.
Theo đánh giá của các chuyên gia Bộ Quốc phòng Nga, đến giữa thập kỷ trong trang bịsẵn sàng chiến đấu của Washington sẽ có từ 1.500 – 1.800 hỏa tiển hành trình tốc độ siêu thanh sử dụng phương tiện mang trên không và trên biển, nhằm mục đích giáng những đòn tấn công  chính xác tiêu diệt các mục tiêu quan trọng trong loạt phóng đạn đầu tiên. Đến năm 2020 số lượng này có thể tăng đến 2500 – 3000 đơn vị.
Đầu đạn siêu thanh dự án DARPA Falcon Project.
Mỹ nỗ lực phối  hợp hệ thống “đòn tấn công thần tốc toàn cầu” với hệ thống phòng thủ vũ trụ và hệ thống phòng thủ hỏa tiển  để  thành một siêu hệ thống. Dưới lá chắn của hệ thống tấn công và phòng thủ toàn cầu, vũ khí tấn công chiến lược của các cường quốc, bao gồm cả vũ khí hạt nhân sẽ trở thành vô dụng. Các đòn tấn công của Mỹ với thời gian rất ngắn, sẽ đánh trúng các mục tiêu – phương tiện mang chiến lược, số lượng không đáng kể các hỏa tiển  được phóng lên sẽ bị bắn hạ bởi hệ thống phòng thủ   tầm xa.
Với hệ thống  tấn công – phòng ngự này,  Mỹ dự tính  sẽ làm lệch cán cân chiến lược toàn cầu và khu vực về phía Mỹ, đẩy khả năng phản kích hoặc tấn công của của các nước khác trở thành nhỏ nhất hoặc bằng không trong các tình huống đặc biệt nghiêm trọng và dồn nén không gian chiến lược của đối phương ở mức nhỏ nhất, bao quanh biên giới các nước không thân thiện.
Đòn tấn công thần tốc của các đầu đạn siêu thanh nhằm vào các mục tiêu chiến lược như hầm phóng hỏa tiển đạn đạo.
Điều này đẩy các nước sở hữu vũ khí tấn công chiến lược vào tình huống khó khăn: Hoặc họ mất hoàn toàn khả năng phản kích đối phương bằng vũ khí chiến lược, hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân ồ ạt tấn công trước để tránh bị hủy diệt.
Một câu hỏi được đặt ra: Ai sẽ là đối thủ chính trong chiến lược siêu phòng ngự này, trong danh sách đen của Mỹ sẽ có các nước như: Iran, Bắc Triều Tiên, Nga, Trung cộng . Với Iran, vấn đề hoàn toàn chưa rõ ràng, Bắc Triều Tiên trên thực tế tiềm lực tấn công bằng vũ khí hạt nhân khá nhỏ do công nghệ phát triển chưa đủ mạnh. Do vậy, hai cường quốc được Mỹ chú trọng là Nga và Trung cộng.
Sơ đồ thử nghiệm Falcon HTV trên Thái Bình Dương.
Liên bang Nga với lực lượng vũ trang có hệ thống hỏa lực phòng không mạnh nhất thế giới và đã từng được thử thách, từ giai đoạn của chiến tranh lạnh đã xây dựng hệ thống phòng không và phòng thủ vũ trụ thành các tuyến phòng thủ rất mạnh, được trang bị các hệ thống hỏa tiển  như S – 400, S-400M, các tổ hợp phòng thủ hỏa tiển tầm trung và tầm gần “Tor” và “Amur” thuộc hệ thống phòng không thành phố Moscow A- 135. Hệ thống phòng thủ đa tầm, rộng khắp và dày đặc này có thể bẻ gãy mọi đòn tấn công từ trên không ngay từ ngoài biên giới nước Nga.
Nếu Mỹ muốn tấn công nước Nga bằng các hỏa tiển siêu thanh, thì toàn bộ châu Âu sẽ nằm trong vòng nguy hiểm. Đây là điều Mỹ hoàn toàn không mong muốn. Ngược lại, Nga có thể phản công  rất nhanh bằng các hệ thống hỏa tiển đạn đạo tầm trung và tầm xa phóng từ tàu ngầm trực tiếp vào nước Mỹ. Với đòn tấn công tầm trung và các hỏa tiển đạn đạo ngày nay, phòng thủ  hỏa tiển Mỹ hoàn toàn vô dụng.
Như vậy, nếu xét trên khía cạnh chiến lước tấn công và phòng ngự theo phương án thống trị 3 không gian chiến lược – vũ trụ, trên không và trên biển, tính toán đến những khả năng và sự trỗi dậy của Trung cộng , cùng với những tuyên bố và chính sách đối ngoại quốc phòng. Có thể thấy rõ, theo các chuyên gia, hypersonic vehice như X-41 đang nhằm vào Trung cộng .
Cùng với sự ngạc nhiên của các chuyên viên  quân sự thế giới trong lĩnh vực phòng thủ, các tướng lĩnh và nhà khoa học Trung cộng  quan tâm nhiều đến hệ thống phòng thủ hỏa tiển  và bỏ qua mối nguy cơ bị tấn công tầm xa bằng những đòn  tấn công  đầu đạn siêu thanh. Một số chuyên gia nhận xét, Trung cộng  đang đứng trước những lựa chọn khó khăn. Từ một hướng, khoa học  quốc phòng không có khả năng xây dựng một hệ thống phòng thủ  hiệu quả. Từ góc độ khác, nếu như Trung cộng  đầu tư xây dựng hệ thống, các nước khác sẽ phát giác  ra hạn chếđồng thời làm lộ bí mật các hầm phóng ngầm của hỏa tiển đạn đạo.
Sự phát triển mạnh mẽ các đầu đạn tấn công của Trung cộng   Đông Phong DF–21 định hướng tấn công hkmh, cũng như số lượng các hỏa tiển  mang đầu đạn hạt nhân cũng như đầu đạn thông thường của Trung cộng  khá lớn. Riêng 2 lữ đoàn  DF – 21 được sử dụng để đẩy lùi hkmh của Mỹ ra khỏi tuyến phòng thủ biển khơi thứ 1 của Trung cộng . Điều này đã đặt cho Mỹ nguy cơ khó lòng bảo vệ các căn cứ của mình trên Okinawa cũng như đảo Guam, các đồng minh của Mỹ ở khu vực biển Hoa Đông và Biển Đông sẽ bị sức ép nặng nề từ hải quân Trung cộng  mà Mỹ không thể có hkmh để giải quyết khủng hoảng nếu xảy ra.
Từ những căn cứ tính toán về khả năng tấn công  tầm rất xa tiêu diệt các trận địa hỏa tiển  bằng vũ khí phi hạt nhân siêu thanh (loại vũ khí phá hủy bằng động năng như X-41 hoặc Falcon HTV)  Mỹ có thể tấn công các trận địa của PLA ngay khi mới xữ dụng  đội hình tác chiến, đồng thời có thể công kích mọi điểm trên lãnh thổ Trung cộng  với thời gian ngắn hơn rất nhiều lần hỏa tiển  Trung cộng  tiếp xúc  mục tiêu.
Tấn công  bằng nhiều phương tiện mang PGS với tầm bay nhiều nghìn km tấn công các hệ thống hỏa tiển  đạn đạo.
Với tốc độ bay siêu thanh từ thượng tầng khí quyền, vật thể bay được cấu tạo để bay theo cách lướt trên không , với góc dốc xuống không lớn gây khó khăn cho các loại hỏa tiển  phòng không tầm cao, tầm trung và hoàn toàn không thể bị bắn hạ ở tầm gần.
Đầu đạn động năng chắc chắn được chế tạo từ vật liệu siêu bền sẽ tăng khả năng chịu đựng các đầu đạn phòng không. Ngoại trừ cách  phá hủy bằng động năng thì khả năng tiêu diệt đầu đạn rất khó. Cũng chưa có loại hỏa tiển  nào của Trung cộng  có khả năng đánh chặn, ngoại trừ trường hợp Trung cộng  mua của Nga  S – 400, điều mà họ đang thương thuyết.
Sơ đồ đường bay tấn công của Falcon HTV-2.
Cho đến khi Trung cộng  có thể có được một hệ thống phòng không tầm xa và dày đặc như của Nga, thì Mỹ vẫn âm thầm phát triển PGS, sẽ không ngạc nhiên nếu các đầu đạn PGS có tốc độ bay từ 5 – 6 M cho đến gần 20 M thì cũng không có hệ thống hỏa tiển nào đánh chặn được, ngoại trừ S-500 hoặc các hỏa tiển  thế hệ sau cao hơn nữa có tầm phòng không đến hàng nghìn km. Đó có thể là chuyện của Trung – Mỹ đến năm 2020 trong vòng xoáy chạy đua vũ trang mới trên Thái Bình Dương.
Trong khi đàm phán vấn đề giảm thiểu vũ khí tấn công chiến lược, Nga đã phát biểu chống lại khả năng Mỹ sử dụng các phương tiện mang vũ khí hạt nhân để lắp đặt các đầu đạn phi hạt nhân, điều đó đã giúp Mỹ giảm một khoản ngân sách khổng lồ cho phòng thủ hỏa tiển, đồng thời thúc đẩy chương trình phát triển hệ thống vũ khí “Đòn tấn công thần tốc toàn cầu” siêu thanh – supersonic.
Có thể trong tương lại , có nhiều khả năng trong các cuộc đàm phán về giảm vũ khí hạt nhân, Nga vẫn tiếp tục duy trì quan điểm của mình. Nhưng Nga cũng không thể dừng hoặc hãm chậm tốc độ nghiên cứu và phát triển vũ khí siêu thanh. Trong việc này có vấn đề Nga đang yêu cầu Mỹ hãm chậm tốc độ hoặc hủy kế hoạch triển khai hệ thống phòng thủ hỏa tiển  ở châu Âu, đồng thời nỗ lực tìm kiếm sự ủng hộ của các cường quốc hạt nhân khác. Vì vậy, Nga không có điểm nào có lợi thế để ngăn chặn hoặc phản đối kế hoạch phát triển vũ khi siêu thanh của Mỹ.
Nhưng trên thực tế, những nước trang bị vũ khí thông thường sẽ rơi vào tình thế yếu hơn so với Mỹ, để tránh bị tổn thương, họ thường hướng đến phương pháp đấu tranh phi đối xứng. Sự ổn định chiến lược của thế giới một phần rất lớn phụ thuộc vào sự ổn định ở châu Âu và Đông Bắc Á.
Thế giới cần hiểu điều đó và làm cho các siêu cường, thường hay tuyên bố “vì một thế giới không còn vũ khí hạt nhân” hiểu được vấn đề này với hy vọng họ không phát triển các loại vũ khí theo công ước quốc tế, nhưng lại có thể thay thế được vũ khí hạt nhân. Điều đó sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh thế giới.
Những người thật sự yêu hòa bình hy vọng rằng, hệ thống phương tiện căn bản để có thể phóng những đầu đạn siêu thanh phi hạt nhân cũng như hệ thống phòng thủ hỏa tiển  sẽ là những vấn đề được đề cập đến trong các chương trình nghị sự nhằm cắt giảm các loại vũ khí tiến công chiến lược. Đây cũng là một cơ hội gìn giữ hòa bình và ổn định.
Trịnh Thái Bằng

Chuyên gia Úc mổ Su-35 của Nga

theo Đất Việt | 16/08/2013 10:30

Su-35-chiến đấu cơ đa năng tiên tiến với khả năng siêu cơ động, trang bị vũ khí tối tân, được tờ Air Power Australia đánh giá là “đỉnh cao công nghệ”.

Su-35 được sản xuất bởi công ty hàng không nổi tiếng Sukhoi của Nga.
Su-35 được sản xuất bởi công ty hàng không nổi tiếng Sukhoi của Nga.
Máy bay có sải cánh 15,24 m.
Máy bay có sải cánh 15,24 m.
Máy bay được trang bị 2 động cơ phản lực tiên tiến AL-41F1 với hệ thống điều khiển lực đẩy vector đa chiều.
Máy bay được trang bị 2 động cơ phản lực tiên tiến AL-41F1 với hệ thống điều khiển lực đẩy vector đa chiều.
Mỗi động cơ có lực đẩy trên 15 tấn.
Mỗi động cơ có lực đẩy trên 15 tấn.
Mỗi động cơ có lực đẩy trên 15 tấn.
Su-35 có thể bay ở tốc độ 2.400 km mỗi giờ.
Tầm hoạt động tới 3.200 km
Tầm hoạt động tới 3.200 km
Su-35 là loại chiến đấu cơ một người
 ngồi.
Su-35 là loại chiến đấu cơ một người ngồi.
Su-35 được thiết kế để thực hiện tất cả các nhiệm vụ không - đối - không, không - đối - đất/biển.
Su-35 được thiết kế để thực hiện tất cả các nhiệm vụ không – đối – không, không – đối – đất/biển.
Trong năm 2004, cuộc tập trận không quân giữa Ấn Độ và Mỹ, loại chiến đấu cơ tiền thân của Su-35 là Su-30MKI đã vượt mặt máy bay F-15 của Mỹ.
Trong năm 2004, cuộc tập trận không quân giữa Ấn Độ và Mỹ, loại chiến đấu cơ tiền thân của Su-35 là Su-30MKI đã vượt mặt máy bay F-15 của Mỹ.
Sự kiện đó được xem là một chiến thắng lớn của ngành công nghiệp hàng không Nga.
Sự kiện đó được xem là một chiến thắng lớn của ngành công nghiệp hàng không Nga.

Không có ‘cửa’ cho F-35 khi cận chiến với Su-35

Tuân Việt  | 28/06/2013 09:00
Là máy bay chiến đấu có khả năng tàng hình tốt nhất của Mỹ nhưng F-35 vẫn là con mồi dễ dàng cho Su-35.
Nhiều người tin rằng đây là tuyên bố hoàn toàn đúng,indrus.in ngày 26 tháng 6 cho biết.
Trong tháng 7 năm 2008, một trận chiến giả định trên không đã được thực hiện, mô phỏng chiến đấu cơ siêu cơ động thế hệ 4 ++  Su-35 của Nga chống lại một phi đội hỗn hợp bao gồm các máy bay chiến đấu của Mỹ là F-22, F/A-18 Super Hornet và F-35. Kết quả là phi đội chiến đấu cơ của Mỹ đã bị đánh cho te tua, hệt như “một đứa trẻ bị ăn đòn roi” vậy.
Cuộc chiến mô phỏng được thực hiện tại căn cứ không quân Hickam của Mỹ ở Hawaii, trước sự chứng kiến của ít nhất bốn thành viên thuộc lực lượng không quân và tình báo quân sự Australia. Nghị sĩ quốc hội Australia Dennis Jensen với những hiểu biết của mình cho rằng, F-35 đã bị Su-35 “đánh bại một cách không thương tiếc”.
Không có ‘cửa’ cho F-35 khi cận chiến với Su-35
Sukhoi Su-35 là một máy bay chiến đấu của 4 + + nhưng còn được trang bị các công nghệ tiên tiến áp dụng cho máy bay tiêm kích thế hệ thứ 5 như khả năng tàng hình. Khả năng để bắn hạ máy bay tàng hình được quyết định chủ yếu bởi khả năng cơ động.
Hệ thống khí động học của Su-35 cho phép nó có thể thực hiện tất cả các thao tác bay phức tạp, trong đó có thuật bay rắn hổ mang Pugachev và thuật bay quay tròn mà chưa từng có loại máy bay nào làm được (thuật bay này gọi là Pancake – tức là máy bay có thể cua 360 độ trên không mà không mất tốc độ).
 Thuật bay rắn hổ mang của Su-35.
Thuật bay rắn hổ mang của Su-35.
Các nhà quân sự phương Tây không coi trọng khả năng cơ động của máy bay, mà theo họ trong thực tế khả năng tàng hình mới là số một. Người đứng đầu chương trình F-35 của công ty Northrop Grumman Pete Bartos cho rằng tàng hình là một yêu cầu cơ bản cho sự phát triển của F-35, do đó nó không cần có khả năng cơ động cao.
Không có ‘cửa’ cho F-35 khi cận chiến với Su-35
 Su-35 tại triển lãm Paris Air Show 2013.
Su-35 tại triển lãm Paris Air Show 2013.
Tuy nhiên, Daily Mail dẫn một nguồn tin quân sự tin cậy từ ngành công nghiệp quốc phòng cho biết rằng “tàng hình là rất hữu ích, nhưng nó không phải là áo tàng hình của Harry Potter“. Thật vậy, Không quân Hoa Kỳ luôn chú trọng đến tàng hình, trong khi lý thuyết chiến đấu trên không thì liên tục được phát triển. “Trong những năm 1940-1950 yêu cầu của máy bay chiến đấu đầu tiên đó là độ cao, sau đó là tốc độ, rồi mới đến tính cơ động và hỏa lực. Còn đối với các máy bay chiến đấu thế hệ thứ ba và thứ tư thì ưu tiên tốc độ hơn, sau đó mới là cơ động, và cuối cùng là siêu cơ động. Nó giống như con dao trong túi của người lính”, Anh hùng phi công Nga Sergey Bogdan cho biết trong một cuộc phỏng vấn với Aviation Week.
Chuyên gia hàng không Bill Sweetman nói rằng máy bay chiến đấu bay với quỹ đạo bay không thể đoán trước sẽ làm “hỏng” thuật bay của tên lửa đối phương, đồng thời nó có thể phóng tên lửa tầm ngắn với độc chính xác cực cao để tiêu diệt mục tiêu.
 Máy bay tàng hình F-35.
Máy bay tàng hình F-35.
F-35 thì hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng tàng hình và không thích hợp khi tham gia các cuộc chiến tầm gần và do đó nó dễ bị tiêu diệt khi cận chiến với Su-35. Máy bay chiến đấu Nga sở hữu một kho vũ khí chết người, với tầm bắn xa và tất nhiên là có khả năng cơ động tuyệt vời, thậm chí trở thành thương hiệu của gia đình Su-27.
Sergei Bogdan nhớ lại rằng vào năm 1989, Su-27 đã thực hiện thành công thuật bay “rắn hổ mang”: thay đổi vận tốc một cách nhanh chóng có thể thoát khỏi sự đeo bám của radar Doppler điều khiển hỏa lực của máy bay chiến đấu đối phương. “Tính cơ động thậm chí còn hiệu quả hơn ở Su-35, bởi vì khi đó phi công có thể điều khiển máy bay theo bất kỳ hướng nào” – Sergei Bogdan nói.
Bill Sweetman nói rằng lợi thế chiến thuật của “Rắn hổ mang” đó chính là việc máy bay bay với quỹ đạo khó lường và có thể thay đổi tốc độ một cánh đột ngột, mà không bị mất khả năng kiểm soát khiến cho tên lửa đối phương rất khó khăn trong việc tiêu diệt máy bay.
Không có ‘cửa’ cho F-35 khi cận chiến với Su-35
Để tiêu diệt được Su-35, F-35 cần phải đến gần hơn, do đó nó tự đặt mình vào nguy cơ bị phát hiện (hệ thống radar mạnh mẽ của Su-35 hoàn toàn có thể thực hiện việc này, hơn nữa máy bay có kho vũ khí gồm các tên lửa không chiến tầm xa họ Vympel với tầm bắn 400 km – là một kỷ lục thế giới).
Các chuyên gia cũng nói rằng các chiến thuật không chiến của không quân Mỹ được rút xuống còn ba nguyên tắc – “tìm kiếm, bắn và tiêu diệt“. Với sự ra đời của Su-35, chiến thuật này nhiều khả năng là phải được sửa đổi. F-35 có thể phát hiện ra Su-35 đầu tiên, nhưng để sử dụng tên lửa nó phải di chuyển lại gần, và tại thời điểm đó cả hai sẽ nhìn thấy nhau. “Trong trường hợp này, lợi thế tàng hình sẽ giảm đáng kể,” Sweetman nói.
Trong cận chiến, Su-35 có khả năng huyền diệu là bay tốc độ thấp và đồng thời tăng tốc độ lên đến siêu âm, biến thành một chàng thợ săn. Tốc độ tối đa của máy bay là 2,5 M, tầm hoạt động 3.600 km có thể mang 12 tên lửa tầm trung Vympel (chẳng hạn như các biến thể sửa đổi khác nhau của R-77). Máy bay chiến đấu F-35 mang được ít tên lửa hơn và phạm vi hoạt động chỉ đạt 2.222 km còn tốc độ tối đa của nó là 1,6 M.
Trong thực tế, F-35 không có những “tính năng kỳ lạ” mà phần lớn lực lượng không quân của thế giới đang rất cần. Ngược lại, Su-35S cung cấp hiệu suất ngang bằng với máy bay chiến đấu thế hệ thứ năm, thậm chí nó còn đáng sợ hơn đối với các lực lượng phương Tây bởi vì thực tế rằng F-35 đã mắc rất nhiều khiếm khuyết khi chưa đi vào hoạt động và vào năm 2020 sẽ có sự xuất hiện của máy bay chiến đấu tàng hình thế hệ năm Sukhoi PAK FA.

Tiêm kích F-35 và Su-35: Cao thủ nào xứng đáng ‘ngôi vương’?

Tuấn Phong | 15/07/2013 13:55
Trong một cuộc không chiến, ngoài nghệ thuật bay, khoa học kỹ thuật và sự am hiểu thực tế của phi công thì khả năng tác chiến của những chiếc tiêm kích, sự tối ưu của hệ thống vũ trang, sự nhạy bén của hệ thống cảm biến phụ trợ, radar đều góp phần vào tỷ lệ đánh đổi chiến thắng LER (Loss Exchange Ratio). Tỷ lệ này được đánh giá trên khả năng tiêu diệt đối phương/khả năng bị hạ gục.
 F-35 và Su-35: Mèo nào cắn mỉu nào?
F-35 và Su-35: Mèo nào cắn mỉu nào?
Trong một cuộc không chiến thực sự thì công việc của một chiếc tiêm kích là tiếp cận đối thủ, khóa mục tiêu trong tầm kiểm soát, tấn công nó thật nhanh và cuối cùng là thoát khỏi khu vực đó trước khi các đối thủ khác tấn công.
Trong trường hợp tấn công thất bại thì chúng cần phải nhanh chóng thay đổi kế hoạch tác chiến và lẩn trốn đối phương thật tốt để chờ đợi cơ hội tấn công khác. Quy trình này đòi hỏi phải có sự kiên nhẫn và khả năng tác chiến tốt để xử lý mọi sự cố hoặc chống trả khi bị tấn công bất ngờ.
Chuỗi các quá trình này được gọi là “Kill Chain” bao gồm các tiến trình sau: phát hiện mục tiêu-định vị mục tiêu-ngắm bắn và khóa mục tiêu-nhấn nút khai hỏa tên lửa-tiêu diệt mục tiêu.
Trong bài này, chúng ta sẽ so sánh một số đặc điểm cấu tạo của Su-35 và F-35 để xem máy bay nào sẽ chiếm ưu thế hơn trong cuộc không chiến trên không. Các phiên bản so sánh trong bài là phiên bản cất cánh thông thường Su-35S và F-35A.
Theo nhận định ban đầu thì Su-35 có phần nhỉnh hơn F-35
Theo nhận định ban đầu thì Su-35 có phần nhỉnh hơn F-35
Hệ thống điện tử: với bất kỳ chiếc tiêm kích nào thì bán kính tác chiến, cự ly tác chiến phụ thuộc rất nhiều vào động cơ phản lực, hệ thống kiểm soát lực đẩy, hệ thống tác chiến đa chức năng JTIS/MIDs, hệ thống liên lạc qua sóng radio. Tuy nhiên, chúng lại phát đi các tín hiệu hồng ngoại hay tín hiệu nhiệt truyền đi khắp trong không gian nên có thể bị các cảm biến của đối phương bắt được, tạo điều kiện cho hệ thống tác chiến của nó vẽ được bản đồ tác chiến để đưa ra phương án tấn công.
Vì vậy, cả 2 chiếc Su-35 và F-35 đều có một hệ thống kiểm soát rất tốt công việc này là hệ thống EMCON, kiểm soát tất cả những phát xạ nhiệt và hồng ngoại, làm giảm đi các tín hiệu phát đi không mong muốn và giấu kín được chúng trước các cảm biến và radar đối phương.
Radar quét mảng pha chủ động X-band: bất kể chiếc tiêm kích nào hiện nay cũng được trang bị công nghệ radar X-band trong công tác định vị và phát hiện đối thủ. Cả 2 chiếc siêu tiêm kích Su-35 và F-35 cũng không ngoại lệ. Tuy nhiên, radar X-band của F-35 lại có tầm quét phía trước rất hẹp, góc và phương quét của nó chỉ bằng ½ so với Su-35. Điểm yếu chí tử này của F-35 là do nó được trang bị công nghệ tàng hình nên các thiết bị radar X-band và các hệ thống cảm biển đều được giấu kín bên trong nhằm đảm bảo công nghệ tàng hình phát huy tốt nhất. Tuy nhiên, điều này lại khiến F-35 không nắm được thế chủ động trước đối thủ.
 APG-81 X-band của F-35 có tầm hoạt động thấp và góc quét hẹp hơn Irbis E X-band của Su-35S
APG-81 X-band của F-35 có tầm hoạt động thấp và góc quét hẹp hơn Irbis E X-band của Su-35S
Trong khi đó, Su-35 sử dụng hệ thống radar tích hợp đa nhiệm với góc quét rộng, bao phủ cả một phần sườn của máy bay, cự ly quét cũng cao hơn rất nhiều so với F-35.
Radar quét mảng pha chủ động AESA L-band: F-35 được trang bị công nghệ tàng hình bị động nên tất cả các hệ thống radar phụ trợ, thậm chí là vũ khí đều được giấu vào bên trong thân. Nhưng L-band là hệ thống radar thám sát và giám sát cự ly trung và chỉ có một vị trí tốt nhất cho nó là ở rìa cánh. F-35 không có L-band, nhưng không hẳn là nó yếu hơn so với Su-35 với L-band. Thông thường thì L-band chỉ hoạt động trong các tình huống tác chiến tầm gần dưới 20nm để thuận lợi hơn cho hệ thống tác chiến khuất tầm nhìn.
Hệ thống giám sát và theo dõi nguồn phát hồng ngoại và chuyển động nhiệt: Tương tự như T-50 và F-22, F-35 và Su-35 cũng được trang bị hệ thống giám sát và theo dõi nguồn phát đi hồng ngoại. Đây là một trong số những công nghệ tốt nhất để vạch mặt được các loại tiêm kích sử dụng công nghệ tàng hình bị động. Khi hoạt động thì các hệ thống liên tục phát xạ nhiệt hoặc hồng ngoại, dù được kiểm soát tốt bởi hệ thống giám sát EMCON thì 1 phần nhỏ trong chúng vẫn bị phán tán đi trong không gian. Su-35 sử dụng hệ thống OLS-35 tích hợp công nghệ giám sát chuyển động nhiệt và các tín hiệu hồng ngoại, tuy không hiện đại như hệ thống OLS-55 của T-50.
F-35 sử dụng Hệ thống AN/AAQ-37 DAS, đây là một hệ thống quang điện được tích hợp và sử dụng riêng cho hình dạng đặc biệt của F-35, khi hoạt động sẽ tạo ra một khối cầu với cự ly giám sát các chuyển động nhiệt và nguồn phát hồng ngoại trong cự ly. Đây là một trong số những hệ thống cảm biến thê hệ mới nhất DAS trong các cuộc thử nghiệm gần đây, có khả năng phát hiện và giám sát được các tên lửa đạn đạo ở cự ly xấp xỉ 705.714nm. Xét về khả năng đa nhiệm, hiển nhiên DAS hơn hẳn so với OLS-35, tuy nhiên nếu xét về khả năng tác chiến thì có rất nhiều điều quyết định. Thế nên ở tiêu chí này, cả 2 gần như tương đương nhau và còn phụ thuộc nhiều vào các điều kiện tác chiến và khả năng của phi công.
Tốc độ: Tốc độ là một trong những yếu tố đặc biệt quan trọng, với một tốc độ cao thì khả năng xoay chuyển và né tránh súng và tên lửa của đối phương sẽ tốt hơn nhiều.
Su-35 có tốc độ cao nhất là Mach 2.25 trên lý thuyết nhờ động cơ đẩy Saturn. Tuy nhiên, trên thực tế, do lực kéo và lực cản trong môi trường tác chiến thông thường nên tốc độ tối ta của nó chỉ đạt Mach 2.0. Trong khi đó, F-35 có tốc độ tối đa là Mach 1.65, thấp hơn so với Su-35.
Tầm hoạt động của tên lửa: không xét về các loại tên lửa điều khiển qua cơ chế thông thường như loại tìm kiếm nhiệt, chúng ta chỉ xét về loại tên lửa tác chiến khuất tầm nhìn. Trong tiêu chí này thì RVV-SD của Su-35 và AIM-120D của F-35 là 2 đôi thủ đáng gờm của nhau.
Một số chuyên gia nhận định rằng RVV-SD vượt trội hơn AIM-120 ở tốc độ. RVV-SD có tốc độ tối đa là Mach 4.5, trong khi tốc độ tối đa của AIM-120 là Mach 4, tuy nhiên, sự hơn thua giữa 2 loại tên lửa này vẫn gây rất nhiều tranh cãi. Các nhà phân tích của Mỹ cho rằng RVV-SD thua kém dòng tên lửa AIM-120 ở hệ thống điện tử do trình độ phát triển công nghệ điện tử của người Nga đã có một thời gian dài bị trì hoãn.
F-35A phóng tên lửa
F-35A phóng tên lửa
Trên thực tế, F-35 vẫn chưa đi vào hoạt động nhưng lại bộc lộ điểm yếu trước Su-35. Ngay cả các phi công Mỹ cũng thừa nhận rằng F-35 có khả năng chiến đấu toàn diện hơn F-22 nhờ công nghệ hiện đại nhưng nó cũng có những điểm hạn chế nhất định. Có rất nhiều nghi ngờ liệu khả năng tàng hình thật sự của F-35 có được như ‘quảng cáo’ hay không. Bên cạnh đó, những giới hạn nhất định về thiết kế (nhằm phục vụ khả năng tàng hình) có thể sẽ hạn chế khả năng tác chiến của F-35.
Tuy nhiên, cần nhớ rằng F-35 được thừa hưởng khả năng tuyệt vời của F-22 nên vẫn chưa thể khẳng định Su-35 sẽ hoàn toàn áp đảo F-35 trong một cuộc không chiến. F-35 vẫn đang trong giai đoạn hoàn thiện mình. Mỹ đã chi một khoản chi phí không hề nhỏ cho dự án này và người Mỹ thì nổi tiếng là thực dụng nên khó có thể có chuyện họ bỏ ra một đống tiền để phát triển một chiếc tiêm kích thế hệ 5 mà không có điểm gì vượt trội so với tiêm kích thế hệ 4 của đối thủ.

F-22 và T-50: Mèo nào cắn mỉu nào?

Lt Cdr. Mikhail Sergeyevich | 01/07/2013 09:59

Tính đến thời điểm hiện tại, F-22 Raptor là máy bay tiêm kích thế hệ thứ 5 nhanh nhất của Hoa Kỳ, với thiết kế sử dụng công nghệ tàng hình bị động, bay với tốc độ rất cao và khả năng cơ động đáng nể của mình. Cho đến nay, nó vẫn được Lockheed cải tiến và nâng cấp liên tục nhằm hạ gục PAK FA T-50 trong một cuộc không chiến.

Ai sẽ là người chiến thắng?
Ai sẽ là người chiến thắng?
Chúng ta hãy làm một bài kiểm tra dựa trên lý thuyết nhằm đánh giá chính xác khả năng hoạt động cũng như các lợi thế trong không chiến của T-50 với F-22 Raptor.
Nhiều người cho rằng T-50 phát triển sau, với công nghệ tiên tiến hơn nên sẽ dễ dàng hạ gục được F-22, tuy nhiên, với 16 năm hoạt động, F-22 không phải là một đối thủ dễ chơi.
F-22 có tốc độ nhỉnh hơn T-50
F-22 có tốc độ nhỉnh hơn T-50
Về bản chất, cuộc đối đầu của 2 máy bay tiêm kích cần xét đến nhiều yếu tố và góc độ bao gồm: công nghệ tàng hình, độ cơ động, các cảm biến hiện đại với mức tối ưu hóa cao và cuối cùng là hệ thống tên lửa không đối không.
Công nghệ tàng hình
F-22 và T-50 đều là những máy bay tiêm kích tấn công hạng nặng với công nghệ tàng hình.
Công nghệ tàng hình của F-22 là công nghệ tàng hình truyền thống, sử dụng các góc và các bộ phận rải đều trên máy bay nhằm phát xạ đi đến hơn 85% sóng xung điện từ tiếp xúc với các bộ phận của nó.
Do những góc bố trí cố định trên máy bay nên những vùng nhạy cảm ở mũi máy bay có một tiết diện thường với diện tích rất nhỏ chỉ 0.0001 m2. Đây là vị trí bố trí radar quét phương ngang phía trước RCS nhưng chính nó cũng làm cho hệ thống ngắm bắn và xác định mục tiêu trở nên khó khăn do những phát xạ sóng của vị trí này khiến cho chỉ có 97% sóng từ hệ thống radar của F-22 tỏa ra đều và không bị cản trở, 3% còn lại bị vị trí này làm sai lệch và tỏa đi những hướng khác nhau.
T-50 cũng không kém cạnh người đồng cấp. Tuy không nhanh bằng F-22 nhưng T-50 có khả năng cơ động cao
T-50 cũng không kém cạnh người đồng cấp. Tuy không nhanh bằng F-22 nhưng T-50 có khả năng cơ động cao
Trong khi đó, PAK FA T-50 sử dụng công nghệ tàng hình chủ động Plasma Shield, hút và làm các sóng xung điện từ phản xạ đi theo những phương không được định trước, một phần lại bị giảm bớt năng lượng và không có khả năng phản hồi trở lại. Hệ thống radar giám sát vật thể bay chuyển động của T-50 không bị ảnh hưởng như vị trí tiết diện 0.0001 của F-22.
Tuy nhiên, cũng có một số chuyên gia nhận định khả năng tàng hình của T-50 vẫn còn thua kém F-22, trong đó, khoảng cách bộc lộ của T-50 gấp đôi F-22.
Cơ cấu làm việc của radar thám sát và dẫn đường trên F-22.
Hệ thống tên lửa
F-22 được trang bị hệ thống tên lửa AIM-12D với radar dẫn đường và có thể tấn công mục tiêu rất chính xác. Trong khi đó, T-50 được trang bị Vympel R-77M và R-74, sử dụng đầu dẫn kết hợp từ nhiều loại cảm biến, gồm cảm biến nhiệt, cảm biến từ trường và hệ thống điều khiển tập trung hóa từ bộ xử lý hồng ngoại.
Một số chuyên gia nhận định rằng Vympel R-77 vượt trội hơn AIM-120 ở tầm bắn và độ cơ động, tuy nhiên, sự hơn thua giữa 2 loại tên lửa này vẫn gây rất nhiều tranh cãi. Các nhà phân tích phương Tây và của Mỹ cho rằng R-77 thua kém dòng tên lửa AIM-120 ở hệ thống điện tử do trình độ phát triển công nghệ điện tử của người Nga đã có một thời gian dài bị trì hoãn.
Tên lửa Vympel R-77M trang bị cho T-50.
Tên lửa AIM-120D của F-22 có một điểm trừ là sử dụng đầu dẫn bằng radar, thay vì đầu dẫn tầm nhiệt. Về mặt lý thuyết, với lớp Plasma bao bọc quanh T-50, khả năng F-22 sử dụng sóng xung điện từ để xác định được mục tiêu là khá thấp. Mặc dù phi công có thể thấy được T-50 bằng mắt thường thì cũng khó có thể tóm được nó với AIM-120D. Trong quá trình nghiên cứu công nghệ Plasma, người ta ước tính rằng tỷ lệ bắn trúng mục tiêu của AIM-120D trước T-50 chỉ là 8% và đây cũng là 8% rủi ro của hệ thống Plasma Shield.
Tuy nhiên, đó chỉ là trên cơ sở lý thuyết. Kết quả của một cuộc không chiến vẫn còn được quyết định bởi nhiều yếu tố khác.
Cấu tạo tên lửa AIM-120D trên F-22.
Hệ thống cảm biến
Trong cuộc chiến, khi F-22 phóng tên lửa tiêu diệt đối thủ, nó phải chấp nhận rủi ro là bộc lộ mình nếu bắn trượt. Với các tiêm kích thế hệ 4, việc xác định được F-22 là vô cùng khó khăn.
Thế nhưng, do đã xác định ngay từ đầu đối thủ cạnh tranh với T-50 là F-22 nên người Nga cũng đã tích cực nghiên cứu để có thể khắc phục điểm yếu này.
Ngoài hệ thống giám sát cảm biến chuyển động nhiệt OLS-35M từng được trang bị cho Su-35, T-50 còn được trang bị Công nghệ Lượng tử tách sóng quang phổ hình ảnh QWIP.
QWIP là công nghệ dựa trên công nghệ tìm kiếm và dò tìm hồng ngoại hay còn được biết đến với cái tên IRST đã được sử dụng từ lâu. Các cảm biến cực nhạy này cho phép phát hiện những vật thể phát ra tia hồng ngoại dù là nhỏ nhất.
Hệ thống QWIP trên T-50
Các hình ảnh lượng tử sẽ được phân tích qua môt hệ thống trí tuệ nhân tạo và đưa ra được các hình ảnh có độ đậm nhạt khác nhau trên một mục tiêu nhất định. Mặc cho lớp bảo vệ của nó là từ bất kỳ loại vật liệu nào thì các tia hồng ngoại vẫn không thể nào che giấu được và cho dù là nhỏ nhất thì hệ thống này vẫn có thể dò ra. Điều duy nhất khiến hệ thống này gặp trở ngại là khi nhiệt độ xuống quá thấp, khoảng dưới 0 độ. Nếu như vậy thì cả động cơ máy bay cũng không thể hoạt động.
Trước đây, công nghệ này đã được sử dụng với mục đích thương mại hóa trong các loại tên lửa đối không sử dụng đầu dẫn lượng tử ánh sáng để tấn công mục tiêu, và Đức chính là quốc gia phát minh ra nó. QWIP trên thực tế có thể phát hiện ra đến 2, 3 thậm chí là cùng lúc 6 nguồn phát tín hiệu hồng ngoại và ưu tiên từ cao đến thấp, sau đó nó sẽ đánh dấu và ghi nhớ lại từng mục tiêu phát hồng ngoại. Đây là một trong những công nghệ mà cho tới nay, mới chỉ được trang bị trên một số ít các tên lửa sử dụng trên các máy bay Panavia Tornado của Đức.
Bài viết sử dụng đơn vị đo cự ly chuẩn trong không quân là đơn vị Nautical Miles – nm tương đương với Knot. 1nm = 1.8421km. Lưu ý đây là đơn vị đo chuẩn sử dụng trên không chứ không phải là đơn vị Knot sử dụng trên biển như chúng ta thường biết.
Nguồn phát tia hồng ngoại chủ yếu trên F-22 chủ yếu là từ động cơ và các cảm biến cánh và mũi máy bay. F-22 là loại tiêm kích tàng hình nên dùng sóng xung điện từ để phát hiện ra nó thì quả là một nhiệm vụ bất khả thi. Vì thế, T-50 sử dụng cảm biến OLS-50 tích hợp QWIP để phát hiện ra các nguồn phát hồng ngoại, và hệ thống này là hệ thống cảm biến chính thay cho radar. Radar chỉ đóng vai trò phụ mà thôi, khi radar không còn thì các radar cảnh báo sớm trên F-22 là AN/ALR-94 sẽ không thể phát hiện T-50 vì không còn bất kỳ nguồn phát xung điện từ nào từ đối thủ nữa. Công nghệ QWIP cho phép tóm gọn được các mục tiêu từ cự ly 70nm và bắt đầu ghi nhớ để nạp dữ liệu cho tên lửa.
Thế nhưng, mọi hệ thống đều có điểm lợi và điểm hại của nó. QWIP khi được tích hợp trực tiếp với OLS-50 thì đồng nghĩa trong cự ly gần, nó sẽ chẳng khác nào tự gài bẫy chính mình cả, nó sẽ phải chuyển sang chế độ sử dụng radar để thám sát không gian.
T-50 sử dụng hệ thống OLS-50 tích hợp QWIP
Suy cho cùng, nếu xét về mặt hoàn thiện công nghệ thì máy bay chiến đấu kiểu mới muốn hoàn thiện phải có thời gian đủ dài. F-22 bay thử lần đầu tiên sớm hơn T-50 một khoảng thời gian rất dài. Mỹ đã bỏ ra chuỗi thời gian này để phát hiện và giải quyết những vấn đề phát sinh.
Cả 2 loại máy bay đều đã từng xảy ra sự cố như F-22 buộc phải dừng bay do thiết bị khí oxy trục trặc, còn T-50, trong lần bay thử biểu diễn năm 2011 đã buộc phải dừng bay do động cơ phun lửa, khiến Nga lúng túng.
 Cả 2
 siêu tiêm kích không mấy kém cạnh nhau về các thông số kỹ thuật
Cả 2 siêu tiêm kích không mấy kém cạnh nhau về các thông số kỹ thuật
Nếu có một cuộc không chiến thực sự xảy ra, vẫn khó có thể xác định được giữa F-22 và T-50, đâu sẽ là người chiến thắng. T-50 mặc dù có thể vượt trội F-22 về một số tính năng nhưng F-22 vẫn luôn được cải tiến để đối phó với các mối đe dọa mới.

__._,_.___

No comments:

Post a Comment