NHÌN VỀ BÊN THẮNG CUỘC
Bài số 4
GIỌT NƯỚC TRÀN
LY
HỒ TẤN
VINH
QUYẾT
ĐỊNH ĐÁNH MIỀN NAM
Kế hoạch đánh
chiếm Miền Nam có từ trước năm 1959. Tại Đại Hội Đảng Cộng Sản kỳ
III tháng
9 năm 1960, Hồ Chí Minh chỉ công khai quyết định đánh chiếm Miền
Nam.
Người dân Miền Nam trong khoản thời gian
1975-1980 dưới sự chỉ huy của Đổ Mười đã nếm Xã Hội Chủ Nghĩa qua những lần ‘Đổi
Tiền’, ‘Đánh Tư Sản Mại Bản’, ‘Cải tạo công thương nghiệp’. Tất cả các hãng
xưởng đều bị tịch thâu, các chủ nhân một số bị đưa đi cải tạo, một số bị đuổi đi
ra các vùng rừng núi hoang vu hẻo lánh để làm ‘kinh tế mới’. Kết quả là toàn dân
nghèo khổ. May là nhờ có bo bo viện trợ, chớ không thì chết la
liệt.
Nhưng cái khổ của dân Miền Nam sau 1975 không
bằng một góc của cái khổ mà Đảng Cộng Sản đã đem đến cho người dân Miền Bắc.
Ngoài cái tội ác giết người, diệt chủng, cuộc Cải Cách Ruộng Đất đã tàn phá kinh
tế Miền Bắc gấp mấy lần hơn, tàn phá triệt để. Tất cả phương tiện sản xuất đã bị
phá banh. Các người tư sản, các người sản xuất lương thực, tạo ra của cải vật
chất đều đã bị giết hết. Dân chúng không còn gì để ăn bắt đầu nổi loạn thì Hồ
Chí Minh mới ra lệnh ngưng giết. Đó là năm 1956.
Năm 1960 lại là năm mất mùa lúa. Người dân
Miền Bắc gọi đó là những ‘năm rách’. Chữ ‘rách’ ở đây có đúng nghĩa của nó vì ai
cũng rách tả tơi. Người nào có chừng hai bộ quần áo để giặt giũ và thay đổi đã
là nhà khá giã rồi.
Không cần
phải là một kinh tế gia cũng dư biết rằng từ năm 1956 đến năm 1960 là 4 năm đào
khoai mà ăn cho đở dạ. Với tình trạng kinh tế như vậy thì lấy cái gì mà đi đánh
Miền Nam?
ViỆn trỢ nưỚc ngoài
Khối
lượng hàng quân sự Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội
chủ nghĩa (bao gồm Tiệp Khắc, Ba Lan, Hungary, Bulgaria, Romania, Đông Đức, Bắc Triều Tiên
và Cuba) viện trợ từ năm 1955
đến 1975, qua từng giai đoạn như sau:
· Giai
đoạn 1955-1960: tổng số 49.585 tấn, gồm: 4.105 tấn hàng hậu cần, 45.480 tấn vũ
khí, trang bị-kỹ thuật; trong đó, Liên Xô: viện trợ 29.996 tấn, Trung Quốc viện
trợ 19.589 tấn.
· Giai
đoạn 1961-1964: tổng số 70.295 tấn, gồm: 230 tấn hàng hậu cần, 70.065 tấn vũ
khí, trang bị - kỹ thuật; trong đó, Liên Xô: 47.223 tấn: Trung Quốc 22.982 tấn,
các nước xã hội chủ nghĩa khác: 442 tấn.
· Giai
đoạn 1965-1968: tổng số 517.393 tấn, gồm: 105.614 tấn hàng hậu cần, 411.779 tấn
vũ khí, trang bị-kỹ thuật; trong đó, Liên Xô: 226.969 tấn, Trung Quốc: 170.798
tấn, các nước xã hội chủ nghĩa khác 119.626 tấn.
· Giai
đoạn 1969-1972: tổng số 1.000.796 tấn, gồm: 316.130 tấn hàng hậu cần, 684.666
tấn vũ khí, trang bị-kỹ thuật; trong đó, Liên Xô 143.793 tấn, Trung Quốc 761.001
tấn, các nước xã hội chủ nghĩa khác 96.002 tấn.
· Giai
đoạn 1973-1975: Tổng số 724.512 tấn, gồm: 75.267 tấn hàng hậu cần, 49.246 tấn vũ
khí, trang bị - kỹ thuật; trong đó, Liên Xô: 65.601 tấn, Trung Quốc: 620.354
tấn, các nước xã hội chủ nghĩa khác: 38.557 tấn.
Như
vậy, qua 20 năm, các nước xã hội chủ nghĩa đã viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa tổng khối lượng hàng hóa là 2.362.581 tấn; khối lượng hàng hóa quân sự trên
quy đổi thành tiền, tương đương 7 tỉ rúp. Việc tự lực sản xuất vũ khí của Quân
đội Nhân dân Việt Nam chủ yếu hướng vào quân trang quân phục và vũ khí cá nhân,
còn vũ khí hạng nặng phụ thuộc phần nhiều vào viện trợ từ các quốc gia đồng
minh.
Trung Quốc, lúc đó
đang cạnh tranh vai trò lãnh đạo phe Xã hội chủ nghĩa với Liên Xô, cũng không
muốn vai trò của mình kém hơn đối thủ cùng tư tưởng. Họ viện trợ cho Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, trong giai đoạn này, còn nhiều hơn Liên Xô. Họ khuyến khích
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chiến đấu giải phóng miền Nam mà không sợ quân đội Mỹ
tham chiến.
Mùa hè 1962, Trung Quốc
gửi cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa súng đạn đủ để trang bị cho 200 tiểu
đoàn. Trung Quốc đồng ý gửi tình nguyện quân vào Bắc Việt Nam nếu quân Mỹ vượt
qua vĩ tuyến 17. Tính từ 1956 đến 1963, Trung Quốc đã chuyển cho miền Bắc số
lượng vũ khí trị giá khoảng 320 triệu nhân dân tệ. Tháng 12-1964, bộ trưởng quốc
phòng Trung Quốc thăm Hà Nội và ký Hiệp ước hữu nghị hợp tác
quân sự Việt-Trung.
Nguồn: (CHIẾN TRANH
VIỆT NAM: Miền Bắc 1954-1959). Wikipedia.
hẬu quẢ liên hoàn cỦa Trung cỘng viỆn
trỢ
Trong chiến tranh Đông
Dương, nước Pháp có nhờ Mỹ viện trợ. Nhưng đem so số tiền viện trợ của Mỹ với
tài sản của nước Pháp thì không có gì đáng kể, nên nước Pháp không bị lệ thuộc
nước Mỹ.
Miền Bắc năm 1960 là
một nước kiệt quệ. Muốn đánh Miền Nam thì phải hoàn toàn nhờ ngoại viện, lúc đầu
có Liên Sô, về sau chỉ có một mình Trung Cộng.
Khi nước
Việt Nam còn bị chia đôi, Trung Cộng không có cách gì áp bức Miền Bắc hay đánh
lấy Miền Nam. Nhưng khi Hồ Chí Minh quyết định đánh chiếm Miền Nam mà lại hoàn
toàn nhờ Trung Cộng viện trợ thì Trung Cộng có cơ hội lấy trọn Việt
Nam.
Sự chiếm lấy Việt Nam gồm có hai giai đoạn rõ
ràng.
Giai đoạn
thứ nhứt là từ năm 1960 đến năm 1975 đó là những năm
Hà Nội cần Trung Cộng chi viện đủ mọi mặt (từ súng đạn, quân cơ giới đến quân
trang quân dụng, lương khô, thuốc men v.v. . .) để đánh Miền
Nam.
Thực tế là
Bắc Việt chỉ có cung cấp nhân lực nghĩa là máu xương của người Việt. Còn tất cả
phương tiện chiến tranh đều là của Trung Cộng.
Ở thượng tầng các
lãnh tụ hai bên thân thiết ‘môi hở răng lạnh’ như vậy thì ở hạ tầng cuộc sống
dân gian, việc người Trung Hoa có qua lại tự do tại biên giới Trung-Việt là tự
nhiên. Bắc Việt vẫn tin vào tình nghĩa Xã Hội Chủ Nghĩa: nên nhà của tôi cũng
như nhà của anh. Nhưng nếu người Trung Hoa có ý đồ thâm nhập Việt Nam bằng ngã
đó thì Bắc Việt không có cách chi trở mặt chống đỡ. Viện trợ của Trung Cộng là
vấn đề sinh tử của Bắc Việt. Nên viện trợ của Trung Cộng đã đè nặng lên cái ‘độc
lập quốc gia’. Trung Cộng có một thời gian dài 15 năm để đưa người thâm nhập các
tỉnh ở miền Bắc. Những người lính giả làm dân này sau này sẽ là ‘đạo quân thứ
năm’ dẫn đường cho quân Trung Cộng đánh Việt Nam năm
1979.
Giai đoạn
thứ hai bắt đầu từ sau 1975. Sau khi Đảng Cộng Sản
Việt Nam thống nhứt được nước Việt Nam rồi thì sự thâm nhập của Trung Cộng
chuyển qua một hướng khác: từ những nhích nhích lấn đất đai và định cư của người
Trung Hoa trên đất Việt Nam chuyển sang kế hoạch chi phối chánh trị, kinh tế,
quân sự.
Khi Việt Nam
đã thống nhứt thì cán bộ tình báo của Trung Cộng có thể đi tới đi lui dễ dàng từ
Bắc vào Nam mà chánh quyền không sao kiễm soát được. Các đồng chí Trung Cộng có
thể giao lưu với các đồng chí Trung, Nam, Bắc Việt Nam một cách rất là tự nhiên.
Tất cả đều là ‘đồng chí’ cả. Nhờ đó họ có thể phân loại ‘ai phe ta’, ‘ai không
ưa ta’. Ai phe ta thì được giúp đở tiến thân, giúp đở lập doanh nghiệp để làm
giàu hợp pháp mà không cần ăn hối lộ. ‘Ai không ưa ta’ thì có khi đi ăn tiệc về
ngộ độc. Đi máy bay thì máy bay rớt. Đi ra đường thì bị xe đụng . .
.
Mấy ông lãnh
tụ Đảng Cộng Sản Việt Nam đã từng ám toán các đồng chí của mình từ xa xưa thời
Dưong Bạch Mai đến Đại Tướng Hoàng Văn Thái sau này, đều biết món ám toán là đở
không được.
Bây giờ đến
phiên Trung Cộng cũng là bậc thầy xử dụng ám toán ra tay thì các lãnh tụ Đảng
Cộng Sản Việt Nam phải quíu chớ sao.
Từ năm 1975
đến nay, Trung Cộng có một thời gian dài 38 năm để thanh lọc các đảng viên cộng
sản Việt Nam, để dựng lên các Thái Thú.
Những năm
1960 đến 1975 Trung Cộng còn rất nghèo khổ. Mao Trạch Đông cũng đã phá banh nền
kinh tế Trung Hoa. Phải chờ Mao Trạch Đông chết (1976) thì Trung Hoa mới khá
giả nhờ Đặng Tiểu Bình. Cho nên viện trợ của Trung Cộng thời gian 1960-1975 là
một sự hy sinh lớn lao, một thắc lưng buột bụng vĩ đại của người dân Trung Quốc
cho Việt Nam.
Hoàn toàn
khác với sự mượn tiền giữa hai cá nhân. Nếu ta mượn 100 đồng thì ta trả 100 đồng
là hết nợ. Nếu lấy lãi suất 20% thì mượn 100 đồng trả lại 120 đồng là hết
nợ.
Nợ của CSVN
đối với Trung Cộng không thể chỉ trả lại bằng tiền mà
thôi.
Còn phải trả
lại bằng tình nữa.
Trước tiên –
năm 1958 - Phạm Văn Đồng - để làm quà hữu nghị - đã ngoan ngoản ký thừa nhận hãi
phận của Trung Quốc. Sau đó Việt Nam đã phải để cho Trung Quốc thâm nhập bằng
hai ngã nêu trên.
Những hô hào
chống xâm lăng, đuổi thực dân Pháp để chiếm được Miền Bắc, những hô hào chống đế
quốc Mỹ, thống nhứt đất nước, đều là những khẩu hiệu tuyên truyền thay đổi tùy
tình thế để thực hiện một mục đích duy nhứt bất di dịch: Quốc Tế Vô
Sản.
Tự do của người dân và độc lập cho đất nước
chưa bao giờ là mục tiêu của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã có cơ hội chọn lựa. Hoặc– như
một nhà ái quốc khôn khéo - núp dưới danh nghĩa Đảng Cộng Sản để làm việc nước,
hoặc núp dưới danh nghĩa Đất Nước để làm việc cho Đảng. Ông đã chọn
rồi.
Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam khi nhận
viện trợ của Trung Cộng để đánh Miền Nam - giọt nước tràn ly - đã chịu bán mình
cho Trung Cộng từ khuya rồi.
HỒ TẤN VINH
Melbourne
24 tháng 8 năm 2013
(còn tiếp)
- Bàn Cờ Đã Sắp Xong: Sức Mạnh Của Quần Chúng (01)
- Bàn Cờ Đã Sắp Xong: Những Người Con Yêu Dấu (02)
- Bàn Cờ Đã Sắp Xong: Người Dân Quốc Nội Đang Chờ Mong Điều Gì Ở Người Việt Hải Ngoại (03)
- Bàn Cờ Đã Sắp Xong: Ý Thức Bị Phản Bội (04)
- Bàn Cờ Đã Sắp Xong: Lương Tâm Người Cộng Sản (05)
- Nhìn Về Bên Thắng Cuộc: Khởi Đầu Đã Là Một Sự Lường Gạt Rồi (01)
- Nhìn Về Bên Thắng Cuộc: Mang Nhục Ngàn Năm (02)
- Nhìn Về Bên Thắng Cuộc: Một Chiến Thắng, Mấy Kiểu Ăn Mừng? (03)
No comments:
Post a Comment