DÂN TỘC SINH TỒN
TRONG THỜI ĐẠI TOÀN CẦU HOÁ
Con người sinh ra giữa lòng dân tộc đồng thời cũng là thành viên cuả khối nhân loại trên điạ cầu. Dân tộc và nhân loại là hai thực thể tương quan khắng khít với nhau nhưng không phải luôn luôn hài hoà, cân đối. Từ xưa đến nay, Dân Tộc vẫn là đơn vị để con người quần tụ, che chắn những khắc nghiệt cuả thiên nhiên, chống trả với thù địch, mưu sự sinh tồn, tạo nên lịch sử, văn hoá . Từ đó, trong mỗi người bình thường đều phát sinh một tình cảm thánh thiện đối với Dân Tộc.
Tuy nhiên, kể từ những thập kỷ cuối cùng cuả thế kỷ 20, nhiều biến chuyển liên tiếp xảy ra khắp nơi trên thế giới, ảnh hưởng mạnh mẽ đến tri thức và hành vi cuả mỗi cá nhân, va chạm đến các tổ chức xã hội, chính trị truyền thống, ngay cả vận mệnh dân tộc, biên giới và chủ quyền quốc gia.
Hiện tượng vừa nêu đang lừng lững bước tới gọi là Toàn Cầu Hoá.
I - TOÀN CẦU HÓA
Để có những khái niệm rõ ràng về Toàn cầu hoá, cần phải xác định toàn cầu hoá bắt đầu khi nào hay là lịch sử toàn cầu hoá. Lịch sử toàn cầu hoá được giải thích qua nhiều lý thuyết khác nhau, cũng là cơ hội cho thấy những biến chuyển cuả xã hội con người.
1/ Lịch Sử Toàn Cầu Hoá
Hai nhà sử học Đức Osterhammel và Peterson truy nguyên đến con đường thương mại tơ luạ 200 năm TCN. Những người du mục giữ vai trò đặc biêt trên tuyến giao thông nầy vì chính họ là người tiêu thụ thành phẫm cũng là người chuyên chở hàng hoá đến những khách hàng phương xa. Con đường tơ lụa không những dùng để trao đổi hàng hoá mà còn nối kết những truyền thống văn hoá và tôn giáo khắp Đông Bán Cầu (Eastern Hemisphere).
Một số học giả nhắc đến đế quốc Trung Hoa dưới triều đại nhà Đường (713-823) mở rộng thế lực từ Đông Á đến Ấn Độ, Ba Tư, liên kết với các đế quốc Abbasid (phạm vi khoảng 10.000.000 km2 trải dài từ Trung Đông thông qua Bắc Phi từ Đông sang Tây dọc theo Điạ Trung Hải) và đế quốc Carolingian (bao gồm các nước Pháp, Tây ban Nha và Đức đến tận sông Elb).
Một số người khác lại đề cập đến sự xuất hiện cuả đế quốc Mông Cổ (thế kỷ XIII) đã phá vỡ những trung tâm thương mại cuả Trung Đông và Trung Hoa nhưng lại làm con đường tơ lụa lưu thông thuận lợi. Các nhà du lịch, truyền giáo … đi lại dễ dàng từ Tây sang Đông, từ Đông sang Tây. Cái gọi là Hoà Bình Mông Cổ (Pax Mongolica) có những kết quả toàn cầu đáng nhớ, đó là dịch vụ bưu chính quốc tế (international postal service) và bệnh dịch hạch (bubonic plague) lan truyền rộng khắp, giết hại hàng chục triệu sinh mạng trong khu vực từ Constantinople, Alexandria đến Đông Âu.
Một lý thuyết nữa về lịch sử Toàn Cầu Hoá đề cập đến Thời Đại Khám Phá (The Age of Discovery) cuả các nhà hàng hải tây phương được các vương triều Tây ban Nha, Bồ đào Nha tài trợ tìm kiếm những tuyến đường trên biển nối liền Tây Âu với Ấn Độ. Năm 1492, vua Tây Ban Nha cung cấp phương tiện cho Christopher Columbus nhắm hướng Tây vượt Đại Tây Dương và tình cờ khám phá Châu Mỹ. Năm 1498, đoàn thám hiểm Bồ Đào Nha do Vasco da Gama chỉ huy đi vòng mũi đất Nam Phi Châu đến Ấn Độ rồi đến Trung Hoa mở ra con đường hàng hải trao đổi mậu dịch với Ấn Độ và các nước Á Châu khác. Một nhà hàng hải Bồ đào Nha khác - Ferdinand Magellan - hướng dẫn một đội hải thuyền vượt qua eo biển Nam Mỹ Châu đi vào Thái Bình Dương (1522) nay còn lưu lại điạ danh Eo biển Magellan, ghi dấu công trình đầu tiên con người hải hành nối liền vòng quanh thế giới.
Các nước Pháp, Anh, Hoà Lan cũng nhảy vào vòng đua thám hiểm, từ đó bản đồ thế giới có thêm Úc Châu (1606), Tân tây Lan (1642), Hạ uy Di (1778).
Nước Nga với vị trí điạ lý đặc biệt nổ lực chinh phục toàn vùng sa mạc Tây Bá Lợi Á thông ra Thái Bình Dương trong khoảng thời gian từ 1580 đến 1640.
Thời kỳ khám phá là một biến chuyển lớn cuả nhân loại, mở ra làn sóng thương mại và thực dân Tây Phương đổ vào các lục điạ khác, ồ ạt và rõ ràng nhất tại Á Châu.
Bồ Đào Nha tiên phong khai dụng thuỷ lộ Âu Á. Khoảng năm 1500, họ đến Ấn Độ (Goa) mở các thương điếm, rồi đến Tích Lan và Java. Năm 1515 họ vào Trung Hoa yết kiến vua Minh Võ Tông xin lưu trú, buôn bán và đến năm 1567, đời Minh Mục Tông họ thuê Áo Môn mỗi năm 500 lượng bạc chính thức làm cơ sở thương mại lâu dài .
Người Tây Ban Nha từ Đại Tây Dương theo thủy lộ Magellan vào Thái Bình Dương chiếm cứ Phi luật Tân, lập nên thành phố Manila, môt trung tâm liên lạc, thương mại Đông Á (1571).
Vào khoản năm 1602, người Hoà Lan đến Ấn Độ lập công ty Đông Ấn để buôn bán, rồi tiến chiếm các đảo Sumatra, Java cuả Nam Dương làm thuộc điạ. Hòa Lan cũng trành dành Áo Môn với Bồ Đào Nha, đưa quân chiếm cứ Đài Loan và Bành Hồ (1624) nhưng không giữ được lâu dài do sự quật khởi cuả Trịnh thành Công.
Khoảng cuối năm 1608, một số doanh nhân người Anh đặt Công Ty Đông Ấn (East India Company) tại hải cảng Surat (Ấn Độ). Sau đó, Sir Thomas Roe đại diện Anh Hoàng James I yết kiến hoàng đế Mugal chính thức xin mở doanh nghiệp tại Surat và phát triển nhiều thương điếm dọc theo bờ biển Đông và Tây nuớc Ấn Độ với cộng đồng người Anh tại các thành phố nổi tiếng Calcutta, Bombay, Madras …
Cuối cùng, một số đông học giả cho rằng toàn cầu hoá chỉ bắt đầu từ thập niên 1960 khi xuất hiện máy điện toán, những thiết bị thông tin hiện đại, và đường hàng không thương mại. Từ ngữ toàn cầu hoá (globalization) được nhìn thấy lần đầu tiên năm 1962 trong tạp chí Spectator và được xử dụng hằng ngày trong Anh ngữ tiếp theo sau những tác phẩm của Marshall McLuhan.
Marshall McLuhan, người Canada, một học giả, một triết gia, một giáo sư Anh ngữ, môt nhà phê bình văn học và nghiên cứu ngôn ngữ, một lý thuyết gia về thông tin liên lạc (a communication theorist) đã tạo nên thành ngữ “truyền thông là sứ điệp” (the medium is the message) và “ngôi làng thế giới” (the global village).
Xác định lịch sử toàn cầu hoá có những ý kiến khác nhau nhưng quan niệm phong phú về toàn cầu hoá được xây dựng trên một một số cơ sở tương đồng và song hành.
2/ Những khái niệm về Toàn Cầu Hoá
Toàn cầu hoá là một quan niệm thu hẹp thế giới đồng thời gia tăng ý thức về thế giới như là một hợp thể (a whole) do hoạt động kinh tế, đầu tư, trao đổi thương mại xuyên qua biên giới. Kinh tế toàn cầu hoá nhằm hội nhập các nền kinh tế quốc gia vào nền kinh tế quốc tế xuyên qua hoạt đông thương mại, đầu tư ngoại quốc, các nguồn tư bản, di dân và chuyển giao kỹ thuật.
Toàn cầu hoá cũng mô tả một tiến trình kết hợp các yếu tố kinh tế, văn hoá, xã hội trong khu vực thành mạng lưới toàn cầu về thông tin liên lạc, vận tải và thương mại. Toàn cẩu hoá thường được nhìn nhận như là sự kết hợp những yếu tố kinh tế, kỹ thuật, văn hoá, chính trị, và sinh học. Từ ngữ cũng thường được dùng cho sự lưu thông tư tưởng, ngôn ngữ, văn hoá dân gian (popular culture) do sự tiếp thu văn hoá (acculturation).
Toàn cầu hoá bao gồm nhiều ý nghiã, sắc thái, ứng dụng :
- Hình thành một ngôi làng thế giới qua sự tiếp xúc gần hơn giưã những thành phần khác nhau trên thế giới do sự gia tăng trao đổi cá nhân, hiểu biết lẫn nhau, tình bằng hữu giữa các “công dân thế giới” (world citizens) và tạo nên nền văn minh toàn cầu (global civilization). Ngân Hàng Thế Giới (World Bank) định nghĩa toàn cầu hoá như là “Sự tự do và khả năng cuả cá nhân và cuả xí nghiệp nhằm khai sáng những giao dịch kinh tế với các cư dân cuả các quốc gia khác nhau”. Liên Hiệp Quốc cũng đã định hình thành ngữ “Láng giềng trên toàn thế giới” (Our Global Neigbourhood) để diễn tả một vấn đề chính trị cuả thế giới đang nổi cộm .
- Trong lĩnh vực chính trị và bang giao quốc tế, đơn vị hiện hữu để phân tích, nghiên cứu là quốc gia, dân tộc. Toàn cầu hoá sẽ phát sinh ra những tổ chức siêu quốc gia (supranational organizations) và những chế độ quốc tế (international regimes), có nghĩa là luật pháp và thi hành luật pháp được công chúng khắp nơi chấp nhận. Chủ quyền quốc gia bị mất để chuyển cho những tổ chức liên quốc gia hoặc tổ chức siêu quốc gia (transnational and supranational organizations) là mối quan tâm hàng đầu. Một hệ thống viễn cảnh thế giới (a world system perspective) là một thế giới với hệ thống chính trị chung (a common political system) được nối kết bằng ngôn ngữ chung, văn hoá chung, và định chế chung.
- Trên bình diện khoa học xã hội và thông tin liên lạc, toàn cầu hoá được hiểu là một nền văn hoá đại chúng toàn cầu bị ngự trị (dominated) bằng những phương tiện sản xuất hiện đại như là điện ảnh, truyền hình, Internet, quảng cáo v.v… Sự thông tin liên lạc đại chúng cung cấp những hình ảnh vượt qua biên giới ngôn ngữ một cách nhanh chóng và dễ dàng hơn là hàng hoá và dịch vụ. Văn hoá đại chúng tòan cầu cũng bị thống trị bởi nghệ thuật ghép hình, tạo hình, lôi cuốn thị giác nhằm tổ chức lại đời sống, cách giài trí, thú tiêu khiển cuả quần chúng bằng hình ảnh, và kiểu cách quảng cáo. Tình trạng nầy bị toàn trị bởi kỹ thuật và văn hoá Tây phương. Diễn biến nầy đang tiến tới với kỹ thuât và động tác có sức hấp thụ mãnh liệt.
- Toàn cầu hoá kinh tế nhắc đến tự do mậu dịch và gia tăng sự liên kết giữa những thành viên công nghiệp khắp nơi trên thế giới, tương ứng với sự xoi mòn chủ quyền quốc gia trong phạm vi kinh tế. Qũy Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) định nghiã toàn cầu hoá là “Sự gia tăng phụ thuộc kinh tế lẫn nhau giữa các quốc gia trên thế giới do sự gia tăng khối lượng và chủng loại hàng hoá kinh doanh xuyên qua biên giới, dòng chảy tư bản quốc tế tự do hơn, kỹ thuật phổ biến lan tràn và rộng khắp”.
- Hậu quả tiêu cực cuả những liên doanh lợi nhuận đa quốc (The negative effects of for-profit multinational corporations) đó là nhũng hành vi xử dụng những phương tiện tài chánh và pháp lý rắc rối lừa đảo những qui định cuả luật pháp và tiêu chuẩn điạ phương, nhằm mục đích khai thác sức lao động và dịch vụ trong những khu vực chưa phát triễn cân đối.
- Chủ nghiã tư bàn lan tràn từ những nước phát triển đến những nước đang phát triển .
- Quan niệm toàn cầu hoá vừa nhắc đến một thế giới nén nhỏ lại vừa nhấn mạnh đến lương tâm thế giới chỉ có một. (Roland Robertson,1992)
- Tiến trình kết hợp thế giới thành một điạ điểm duy nhất (Anthony King, 1997).
3/ Những Xu Hướng Kết Hợp Với Toàn Cầu Hóa
- Mậu dịch quốc tế gia tăng nhanh hơn sự phát triển kinh tế thế giới.
- Lưu lượng nguồn vốn quốc tế gia tăng bao gồm sự đầu tư trực tiếp cuả ngoại quốc.
- Sự sản xuất trên toàn thế giới gia tăng cùng lúc gia tăng sản phẫm và tiêu thụ.
- Lưu lượng các sự kiện xuyên biên giới gia tăng như là Internet, vệ tinh viễn thông, điện thoại.
- Sự thúc đẩy cuả giới luật sư về toà án tội phạm quốc tế và những phong trào công lý quốc tế.
- Sự trao đổi văn hoá quốc tế ngày càng rộng lớn do xuất khẩu phim ảnh cuả Hollywood và Bollywood.
- Một số người cho rằng chủ nghĩa khủng bố lợi dụng toàn cẩu hoá nhờ vào thị trường tài chánh toàn cầu và nền tảng cấu trúc thông tin liên lạc trên khắp thế giới.
- Phát triển rộng rải chủ nghiã đa văn hoá, gia tăng sự tiếp xúc cá nhân với văn hoá khác nhau, ngoài ra còn làm giảm sự khác biệt xuyên qua tiến trình đồng hoá, Tây phương hoá (Westernization), Mỹ hoá (Americanization) hoặc Hoa hoá (Sinosization).
- Xoi mòn chủ quyền quốc gia và biên giới quốc gia xuyên qua những thoả hiệp quốc tế đưa đến những tổ chức như là : Tổ Chức Thương Mại Quốc Tế (WTO), Tổ Chức Những Quốc Gia Xuất Cảng Dầu Hoả (OPEC), Liên Hiệp Âu Châu (EU).
- Du lịch quốc tế nhiều hơn.
- Di dân gia tăng, kể cả di dân bất hợp pháp.
- Phát triển hạ tầng cơ cấu thông tin liên lạc toàn cầu.
- Phát triển hệ thống tài chánh toàn cầu.
- Các tổ hợp đa quốc gia kiểm soát và gia tăng cổ phần.
- Các tổ chức quốc tế như là Tổ Chức Thương Mại Quốc Tế, Liên Hợp Quốc (UN), Qủy Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) gia tăng chức năng để điều hành các giao dịch quốc tế.
- Gia tăng một số tiêu chuẩn áp dụng trên khắp thế giới, thí dụ luật tác quyền (copyright laws).
4/ Kết Hợp Kinh Tế Khu Vực (Regional economic integration)
Liên hợp kinh tế khu vực - một giai đoạn cuà kinh tế toàn cầu - quan tâm tháo bỏ rào cản mậu dịch hoặc những trở ngại giữa các quốc gia tham dự để tạo nên sự hợp tác hay phối hợp . Liên hợp kinh tế khu vực thường được thực hiện bằng những hình thức như sau :
a) Khu Vực Tự Do Thương Mại (Free Trade Area) : gồm những quốc gia hội viên bải bỏ tất cả những ngăn cản về thương mại giữa những quốc gia trong nhóm, ngoại trừ quyền thi hành chính sách riêng đối với những quốc gia không phải hội viên . Thí dụ : Khu vực tự do thương mại Châu Mỹ La tinh (The Latin American Free Trade Area – LAFTA), Thoả hiệp tự do mậu dịch Bắc Mỹ ( the North American Free Trade Agreement – NAFTA ).
b) Liên Hiệp Thuế Quan (Custom Union) : tương tự như Khu vực tự do thương mại ngoại trừ những quốc gia hội viên phải theo đuổi quan hệ ngoại thương chung và chính sách quan thuế chung đối với hàng nhập cảng từ những quốc gia không phải hội viên . Thí dụ : Thị trường chung Trung Mỹ (the Central American Common Market - CACM), Cộng đồng Caribbean và thị trường chung (the Caribbean Community and Common Market – CARICOM).
c) Thị Trường Chung (Common Market) : Một khuôn mẫu Liên Hiệp Thuế Quan đặc biệt cho phép không những tự do trao đổi hàng hoá và dịch vụ mà còn cho tự do lưu chuyển những yếu tố sản xuất (tư bản, lao động, kỹ thuật) xuyên qua biên giới quốc gia . Thí dụ : Hiệp ước thị trường chung phiá Nam (Southern Common Market Treaty).
d) Liên Hiệp Kinh Tế (Economic Union) : môt thị trường chung đặc biệt nhằm thống nhất chính sách thuế khoá và tiền tệ . Các quốc gia tham dự gia nhập vảo cơ cấu trung ương đề thi hành quyền kiểm soát từ đó hình thành một quốc gia rộng lớn duy nhất theo nghiã kinh tế.
e) Liên Hiệp Chính Trị (Political Union) : đòi hỏi những nước tham dự kết hợp lại thành một quốc gia đúng nghiã trên bình diện kinh tế và chính trị . Mô thức liên hiệp nầy tiến đến thành lập một quốc hội chung và những định chế kinh tế khác nữa.
Năm diễn tiến kể trên là những mức độ kết hợp kinh tế giữa các quốc gia trong một khu vực và từ một mô hình nầy có thể chuyển đổi sang một mô hình khác. Thí dụ, Liên Hiệp Âu Châu (EU) khởi đầu là thị trường chung và sau nhiều năm chuyển đổi thành liên hiệp kinh tế và hiện nay là một liên hiệp chính trị từng phần.
Kết hợp kinh tế toàn cầu là mô thức rộng lớn hơn, thực hiện xuyên qua sự “hợp tác đa phương” trong đó những quốc gia tham dự liên kết với nhau bằng qui luật (rules), nguyên tắc, hoặc trách nhiệm, tạo ra những thoả hiệp. Ngoài ra, những thoả hiệp đa phương cũng được xử dụng rộng rải để thăng tiến sự trao đổi kinh tế trên khắp thế giới. Thí dụ Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (the World Trade Organization - WTO) theo dõi tổng quát thương mại, dịch vụ, đầu tư ; Ngân Hàng Thế Giới (World Bank) và Qủi Tiền Tệ Quốc Tế (the International Monetary) điều hành lưu lượng tư bản và ổn định tài chánh.
5/ Những hiệu quả tiêu cực cuả Toàn Cầu Hoá
Ngày nay người ta đang bàn tán sôi nỗi về toàn cầu hoá. Những nền kinh tế đang gia tăng kết hợp với nhau. Điện thoại di động và Internet đem mọi ngưởi đến gần với nhau hơn. Thế giới trở nên một vị trí nhỏ hẹp. Hàng hoá, môt thời quanh quẩn trong các quốc gia tây phương, nay lan tràn khắp thế giới. Công việc làm đổ vào bất cứ nơi nào trên điạ cầu có Internet. Nhờ vào hạ tầng cấu trúc lưu thông cải tiến, một người có thể đến bất cứ điạ chỉ nào trong một thời gian ngắn.
Nhận ra những hiện tượng nầy, một số đông người chống đối toàn cầu hoá vì những hệ quả tiêu cực :
- Để giảm giá thành, các nước phát triển đưa những công việc chế biến vào các quốc gia đang phát triển hầu khai thác mức lương công nhân rẻ mạt. Từ đó công nhân và nhân viên văn phòng ở các nước phát triển lâm cảnh thất nghiệp. Do cơ hội nầy, kinh tế Trung Cộng phất lên đều đặn, mức 10% mỗi năm. Những nghề như viết chương trình (programmer), chủ bút, chuyên viên, kế toán đuợc dồn vào Ấn Độ với mức lương thấp hơn nhiều.
- Toàn cầu hoá cũng khai thác sức lao động. Tù nhân và trẻ em được đem vào làm việc trong những điều kiện khốn cùng. Những tiêu chuẩn an toàn không còn quan tâm để sản phẩm có giá rẻ.
- Việc làm không ổn định. Một số ít người nhanh nhẩu có việc làm lâu dài và thường xuyên, đa số công nhân sống trong lo sợ bị mất việc do cạnh tranh. Càng gia tăng cạnh tranh kiếm công việc, càng làm giảm tiền lương và kết quả là tiêu chuẩn sinh sống bị hạ thấp.
- Khủng bố có thể tiếp cận với những vũ khí tinh vi gia tăng khả năng sát hại. Khủng bố xử dụng Internet liên lạc với nhau bố trí kế hoạch.
- Nhiều công ty nhắm đến những quốc gia nghèo, không có đủ luật lệ chế tài, thành lập những kỹ nghệ gây ô nhiễm môi trường.
- Những dây chuyền bán thức ăn nhanh như McDonalds, KFC lan tràn trong thế giới đang phát triển và con người khắp nơi hàng ngày tiêu thụ thức ăn tạp nhạp (junk food) có hại cho sức khoẻ.
- Phúc lợi do toàn cầu hoá không phổ quát. Người giàu giàu hơn và người nghèo trở nên nghèo hơn.
- Văn hoá xấu nước ngoài đang lấn chiếm ảnh hưởng văn hoá điạ phương xuyên qua truyền hình và Internet.
- Những quốc gia thù địch có thể tuyên truyền qua Internet.
- Những bệnh truyền nhiễm chết người như là HIV/AIDS đang gieo rắc do khách du lịch mang đến những nơi hoang sơ nhất trên điạ cầu.
- Những công ty đa quốc gia thay thế những cơ xưởng điạ phương.
- Trong những nước phát triển vật giá leo thang làm chính quyền giảm khả năng chu cấp cho các chương trình an sinh xã hội.
- Gia tăng tội phạm buôn người.
- Trước đây, những công ty, xí nghiệp đa quốc bị hạn chế chỉ trong lĩnh vực thương mại, nay lại có cơ hội gia tăng ảnh hưởng vào những quyết định chính trị.
Nói chung, toàn cầu hoá gây ra sự ngờ vực trong đa số nhân loại. Những nước đang phát triển cho rằng đây là cơ hội tràn ngập văn hoá Tây phương như là một chủ nghiã tân đế quốc (new imperialism) tàn phá đất nước họ. Một số người Mỹ và châu Âu cũng lo ngại những làn sóng di dân hợp pháp và bất hợp pháp làm tổn hại đến nếp sống an bình cuả xã hội hiện hữu. Lý tưởng hơn, một số người vẫn nhìn nhận toàn cầu hoá đẩy mạnh sản xuất kinh tế, đem lại nhiều lợi ích cho mọi người, nhưng đỏi hỏi phải đạt đến sự phân phối công bằng, hợp tình, hợp lý. Người ta cũng nhắc đến những con người, những tổ chức, những cơ chế có nhiều thế lực phải thể hiện những hành vi đạo đức, hy sinh chính họ để phục vụ cho những mục tiêu cao cả và lợi ích chung.
II- VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH TOÀN CẦU HÓA
Việt Nam là một quốc gia trong khu vực Đông Nam Châu Á, kế cận với hai quốc gia đông dân nhất, nhì thế giới : Trung Cộng và Ấn Độ. Hiện nay, Việt Nam giao thương với tất cả các quốc gia trên khắp thế giới trong đó sự liên lạc với các nước Đông Nam Á và Trung cộng phức tạp và gắn bó nhiều hơn.
1/ Việt Nam và Đông Nam Á
Đông Nam Á là một phần cuả Á Châu gồm những quốc gia phiá nam Trung Hoa, đông Ấn Độ và bắc Úc Châu. Đông Nam Á gồm có hai khu vực điạ lý : lục điạ Á Châu và vành cung đảo và quần đảo từ đông đến đông nam. Khu vực lục điạ gồm các nước Cambodia, Lào, Miến Điện, Thái Lan và Việt Nam, chủng tộc Thái (Tai) và Úc Á (Austroasiatic) chiếm đa số với Phật giáo và Thiên chuá giáo. Khu vực biển gồm các nước Brunei, Đông Timor, Indonesia, Malaysia, Philppine và Singapore thuộc chủng tộc Nam Đảo (Austronesian), đa số là tín đồ Hồi Giáo hoặc Thiên chuá giáo.
Là khối cư dân sống trên sóng nước (seafaring), người Đông Nam Á đã liên lạc, giao thiệp với nhau khoảng 5000 năm Trước Công Nguyên (Before Common Era). Thương khách Trung hoa xâm nhập khu vực Đông Nam Á vào thế kỷ 15 trước khi Tây Âu theo chân những nhà phiêu lưu hàng hải đến chiếm cứ thuộc điạ. Năm 1940, Nhật đổ quân vào Đông Dương và năm 1941 Nhật tấn công chiếm lỉnh các quốc gia trong vùng Đông Nam Á làm chủ các tài nguyên thiên nhiên cung ứng cho cuộc viễn chinh cuả quân phiệt Nhật.
Hiện nay các quốc gia Đông Nam Á đã ngồi lại với nhau trong một tổ chức gọi là Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (Association of Southeast Asian Nations - ASEAN) thành lập tháng 8 năm 1967 tại Thái Lan. Khởi đầu gồm có năm quốc gia : Nam Dương, Mã Lai, Phi luật Tân, Singapore và Thái Lan ; năm quốc gia kế tiếp là Brunei 1984, Việt Nam 1995, Miến Điện và Lào 1997, Cambodia năm 1999.
Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á nhằm mục tiêu thăng tiến các quyền lợi hổ tương trong toàn vùng, bao gồm việc thúc đẩy phát triền kinh tế, văn hoá và xã hội, hoà bình và ổn định trong khu vực. Ba cơ quan mệnh danh An Ninh Đông Nam Á (ASEAN Security), Cộng Đồng Kinh Tế Đông Nam Á (ASEAN Economic Community), và Cộng Đồng Văn Hoá Xã Hội Đông Nam Á (ASEAN Socio-cultural Community) được thành hình năm 2003 để điều hành công tác. Hiện nay, mối quan tâm trên hết cuả ASEAN là kinh tế, tạo nên một thế lực cạnh tranh trên đấu trường hoàn vũ. ASEAN dự kiến xây dựng Đông Nam Á như là một điạ bàn sản xuất duy nhất (a single market production base) do Thoả Hiệp Khu Vực Tự Do Mậu Dịch Đông Nam Á (ASEAN Free Trade Area - AFTA). AFTA cam kết phá bỏ các rào cảng thuế quan hoặc không phải thuế quan giữa những quốc gia hội viên để đạt đến hiệu suất kinh tế to lớn hơn.
Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á cũng nổ lực đoàn kết khu vực và phát triển sự hiểu biết lẫn nhau xuyên qua văn hoá bằng những chương trình giáo dục và xã hội như là Chương Trình Công Tác Bệnh Liệt Kháng (ASEAN Work Programme for HIV and AIDS), Mạng Lưới Sức Khoẻ và An Toàn Nghề Nghiệp (ASEAN Occupational Safety and Health Network), Mạng Lưới Đại Học (ASEAN University Network - AUN), Chương Trình Trao Đổi Sinh Viên (ASEAN Students Exchange Programme), Diễn Đàn Văn Hoá Tuổi Trẻ (Youth Cultural Forum), và Diễn Đàn cuả Những Người Phát Ngôn Trẻ (ASEAN Young Speakers Forum).
Về phương diện hoà bình và ổn định trong khu vực, người ta nhận thấy rằng ngay từ lúc mới thành lập đã không có một sự đối đầu vũ trang giữa các nước trong khối ASEAN mặc dầu từ lâu đã có nhiều tranh cải về lảnh thổ, lảnh hải và những cuộc chạm súng mới đây tại biên giới Thái lan và Cambodia.
2/ Cộng Sản Việt Nam và Trung Cộng
Đảng Cộng sản Việt Nam nắm quyền toàn trị trên khắp đất nước từ 30 tháng 4 năm 1975 cho đến nay bằng những âm mưu và thủ đoạn xuất phát từ một nhóm quyền lực và gian manh nhât trong cơ cấu trung ương đảng. Trước những trào lưu cuả thế giới, chúng nhanh nhẹn tạo dáng phần ngoại cảnh để lừa gạt dư luận “dễ tính”, thu lợi tối đa cho cá nhân đảng viên, cũng là phương tiện để nuôi sống tổ chức đảng cộng sản.
Ngoại trừ khi Lê Duẩn còn đủ thế lực lôi cuốn cộng sản Việt Nam thần phục Liên Bang Sô Viết, phần thời gian trước và sau và mãi đến hôm nay, đảng cộng sản Việt Nam tiếp tục chấp nhận lệ thuộc Trung cộng để sống còn. Năm 1986, cộng sản Việt Nam thi hành chính sách “đổi mới” tập tểnh bước theo trào lưu kinh tế thế giới, mở cửa giao thiệp với các nước bên ngoài.
Riêng đối với Trung cộng, cộng sản Việt Nam không còn đủ liêm sĩ khi nêu ra những tiêu chuẩn chỉ đạo trong việc bang giao. Đó là bốn tốt (láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt) và mười sáu chữ vàng (láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai). Bị mù mắt vì lợi ích cá nhân và phe đảng, cộng sản Việt Nam không đủ sáng suốt cạnh tranh với đối thủ phương bắc, chịu thua thiệt trong nhiều lỉnh vực. Hiện nay Trung cộng đã khống chế Việt Nam nhiều điểm và diện từ gần đến xa : Bauxite Tây Nguyên, rừng đầu nguồn, biển Đông, xa lộ xuyên Á, kế hoạch “Hai Hành Lang-Một Vành Đai Kinh Tế”, một số rác rến văn hoá lai căng (biểu lộ nhân lể hội Ngàn Năm Thăng Long), mua chuộc chính quyền điạ phương bố trí người qua các cuộc hôn phối, và nhiều biện pháp khác nữa …
Cán cân thương mại hàng năm giữa Việt Nam và Trung cộng luôn luôn bị lệch về phiá Trung cộng.
Năm 2006 xuất : 3.030 triệu USD và nhập vảo 7.309 triệu USD, nhập siêu 4.360 triệu USD. Năm 2007 xuất : 3.356 triệu USD và nhập : 12.502 triệu USD; nhập siêu : 9.146 triệu USD. Năm 2008 xuất : 4.536 triệu USD và nhập : 17.123 triệu USD; nhập siêu : 12.587 triệu USD. Năm 2009 xuất : 4.781 triệu USD và nhập : 15.970 triệu USD; nhập siêu : 11.190 triệu USD.
Kể về các loại hàng hoá, Việt nam xuất sang Trung cộng hơn 100 loại hàng chia làm bốn nhóm :
- Nguyên liệu thô (than đá, dầu thô, cao su, quặng mỏ …).
- Sản phẫm nông nghiệp (lương thực, trà, rau đậu, hạt điều…).
- Thủy sản tươi và đông lạnh (tôm, cua, cá …).
- Hàng tiêu dùng (hàng thủ công, mỹ nghệ, giày, đồ gia dụng …).
Việt Nam nhập từ Trung cộng hơn 200 mặt hàng và chia làm 5 nhóm :
- Máy và trang bị dùng cho nhà máy xi măng và nhà máy đường.
- Máy cơ khí, máy xe, dụng cụ và thiết bị y khoa, máy may, máy nông nghiệp.
- Dầu và vật liệu thô như là xi măng, sắt, phẫm nhuộm, thuốc trừ sâu, phân bón.
- Thực phẩm gồm có rau quả, bột mì, dầu thực vật, táo, lê, hạt giống.
- Sản phẩm tiêu dùng như là dược phẩm, hàng điện tử, vải sợi, đồ chơi …
Sự cách biệt về số lượng và chủng loại hàng hoá trao đổi giữa Việt Nam và Trung cộng phản ánh sự khác nhau về mức độ phát triển kinh tế. Việt Nam không thể xâm nhập thị trường Trung cộng cùng loại hàng mà các hảng xưởng Trung cộng sản xuất và bán vảo Việt Nam. Trung cộng khai thác tài nguyên thiên nhiên Việt Nam vừa để thúc đẩy phát triễn kinh tế vừa kèm với nhiều dự mưu khác nữa. Một vài học giả bình luận sự mậu dịch Việt Nam – Trung Cộng là một thí dụ điển hình về trục giao thương Nam-Bắc giữa các nuớc đang phát triển phiá nam bán cầu với những nước phát triễn bắc bán cầu. Việt Nam xuất cảng nguyên liệu thô kém giá trị, chuyên chở cổng kềnh, tốn kém trong khi nhập cảng hàng hoá giá trị cao, gọn nhẹ từ Trung cộng.
Theo tài liệu “Toàn Cầu Hoá, Sự Nghèo Khổ và Môi Trường ở Việt Nam” (Globalization, Poverty and Environment in Vietnam) cuả Ian Coxhead, University of Wisconsin-Madison thì sự phát triển và toàn cầu hoá tại Việt Nam ngày càng đe dọa nghiêm trọng đến môi trường, làm hao hụt tài nguyên thiên nhiên. Thay vì cải tiến nhanh chóng cơ cấu sản xuất và nhân dụng, Việt Nam chỉ dựa dẫm vào nông nghiệp, ngư nghiệp và gia công. Ba phần tư thu nhập quốc gia do xuất cảng hải sản, gạo, cà phê, khoáng sản và hàng gia công. Một nửa đầu tư ngoại quốc cũng khai thác lĩnh vực nầy. Phá rừng, ngập lụt, ô nhiễm nguồn nước, cạn kiệt nguồn cá ven biển là những vấn đề không thể kéo dài trong tương lai, không những ngành xuất cảng tài nguyên thiên nhiên bị sa sút mà còn đe doạ đến đời sống cuả cả dân tộc.
Thực tế và chi tiết hơn, Việt Nam còn bị nhiều thiệt hại nặng nề . Hàng hoá Trung cộng vào Việt Nam bằng bất cứ cửa khẩu nào, đường bộ, đường biển, trong lúc hàng hoá Việt Nam vàoTrung cộng bắt buộc phải theo lộ trình nhất định. Cao su chỉ được qua đường Mông Cái hoặc Lục Lầm, thủy sản phải qua Mông Cái và hoa quả tươi qua ngã Lào Cai hoặc Lạng Sơn. Trung cộng cũng thay đổi xoành xoạch những thủ tục, qui định, phí tổn nhập khẩu… khiến doanh nghiệp Việt Nam nhiều phen điêu đứng, nhất là những nhà buôn hoa quả, thuỷ sản tươi, mủ cao su. Vào đến đất Tàu, hàng hoá Việt Nam chỉ quanh quẩn các tỉnh phiá Nam Trung cộng, trong khi hàng Trung cộng đi đến bất cứ điạ chỉ nào tại Việt Nam từ đô thị đến buôn, làng hẻo lánh với những tiêu chuẩn thấp kém : thực phâm chế biến có mầm bệnh truyền nhiễm, hàng tiêu dùng còn lưu trữ hoá chất độc hại, đồ chơi trẻ em khích động bạo lực. Tệ hại nhất, hàng Việt Nam bán ra chỉ được trả bằng nhân dân tệ, một loại tiền không thể chi tiêu ở các thị trường khác.
Các tuyến đường giao thông trên biên giới Việt Hoa còn là cửa ngõ của tội phạm, bạch phiến, bạc giả, hàng giả, bệnh truyền nhiễm của người và gia súc từ Tàu đổ vào Việt ; cũng là nơi chuyển gỗ qúi, thú hiếm, phụ nữ và bé gái Việt vào Tàu để thoả mãn những nhu cầu hưởng thụ quái đản cuả văn minh phương Bắc.
Như thế vẫn chưa đủ, Trung cộng còn dành nhiều biện pháp khốc liệt hơn nữa :
Chiếm giữ lưu lượng nước thượng nguồn Hồng Hà và Cửu Long : Hồng Hà và Cửu Long là hai sông lớn, xuất phát bên ngoài Việt Nam tạo nên hai đồng bằng lớn ở Bắc và Nam Việt Nam. Đây là khu vực luá nước nỗi tiếng trên thế giới, nguồn tài nguyên căn bản nuôi sống dân tộc. Nhiều chục năm qua, Trung cộng đã xây dựng nhiều đập ngăn nuớc trên thượng nguồn các con sông nầy để tạo điện năng vả tưới hoa mảu nên lượng nước đổ vảo hai vùng châu thổ bắc và nam Việt Nam ngày càng giảm sút, nguy cơ ô nhiễm và cạn kiệt đang xuất hiện ngày càng trầm trọng.
Theo Hiroshi Hiro, chuyên gia người Nhật về sông Cửu Long cho biết Trung cộng đã xây nhiều đập trên thượng nguồn hoặc phụ lưu sông Cửu Long, gồm có : Liutongsiang, Jiabi, Wumenlong, Tuoba, Huangdang, Tiemenkan, Guong-guoqiao, Xiaowan, Manwan, Dachaoshan, Nuhado, Jinhong, Galanda, MãnhTòng. Các đập thủy điện của Hoa Nam hiện nay giữ đến 16% cuả tổng lưu lượng nước 475 tỉ mét khối /năm; riêng đập Tiểu Loan (Xiaowan) có dung lượng 15 tỉ mét khối nước lấy từ sông Cửu Long, dòng chảy cuả sông chỉ còn 2/3 so với thập kỷ trước.
Ngoài ra, do vị trí đoạn khởi nguồn cuả các sông lớn Salween (đổ vào Miến Điện), Cửu Long, Dương Tử theo hướng bắc nam và song song với nhau, một số viễn mộng Đại Hán còn dự trù những kế hoạch vĩ đại chuyển nước cuả hai sông kia vào Dương Tử để thêm năng lượng phát triển công nghiệp, nông nghiệp cho bình nguyên Hoàng Hà-Dương Tử.
Binh Đoàn tên lửa Trường Kiếm : Do nhu cầu chiếm thế thượng phong trong tiến trình toàn cầu hoá, Trung cộng bắt chước Dionysus (367-344 B.C.) ngang ngược treo một lưỡi kiếm trên đầu Damocles. Bản tin 28/1/2010 cuả hảng tin Kanwa (Đài Loan) cho biết những tên lửa hành trình Trường Kiếm (Changjian) C.J.10 đã được chuyển đến cho binh đoàn 215 đóng tại Liễu châu tỉnh Quảng Tây. Tên lửa C.J.10 có thể mang đầu đạn hạt nhân, tầm bắn xa 2.000 km. Việt Nam và các nuớc Đông Nam Á có biên giới với Trung cộng nằm trong tầm bắn trực tiếp . Binh Đoàn 215 cũng chấm định những mục tiêu tác xạ trong vòng bán kính như là đông băc Ấn Độ, tuyến đường hàng hải trong biển Đông từ Malacca đến bắc Á, Phi luật Tân, Đài Loan, nam Nhật Bổn …
Nhà máy điện hạt nhân gần biên giới Việt Nam : Trong một bài viết nhan đề “Điện hạt nhân sát biên giới ảnh hưởng gì đến Việt Nam” giáo sư Phạm duy Hiển nêu ra một số ý kiến :
“… Trung quốc đã, đang và sẽ xây năm, sáu chục nhà máy điện hạt nhân, tâp trung nhiều nhất ở tỉnh Quảng Đông. Phòng Thành là nhà máy đầu tiên thuộc khu tự trị dân tộc Choang, tỉnh Quảng Tây. Sắp đến sẽ có nhà máy trên đảo Hải Nam. Với mật độ lò phản ứng dày đặc như vậy nằm trên đầu nguồn các khối khí lạnh lục điạ thường xuyên kéo xuống nước ta về muà đông, chuyện nầy là một mối lo nữa, tuy mới xuất hiện, nhưng ở tầm quốc gia, và sẽ rất dai dẳng. Đó là chưa nói đến trường hợp chất phóng xạ bị rò rĩ ra Vịnh Bắc Bộ, ngay trước cừa ngỏ chúng ta …”.
“…Trên thực tế, các chất phóng xạ rơi lắng xuống đất, xuống biển, tích tụ lại trong các lớp trầm tích, mủn hữu cơ, động vật phù du… Có những chất phóng xạ thoát ra tử nhà máy điện hạt nhân sẽ sống rất lâu, sau 30 năm mới tự phân rã một nửa, như Cs-137(tích lũy vào mô thịt), Sr 90 (tích lũy vào mô xương). Chất Pu-239 còn sống lâu hơn, đến hàng nghìn năm. Chúng sẽ xâm nhập vào nguồn nước, thực phẩm, rau quả, hải sản, vùng bị ảnh hưởng nặng nhất là ven biển Vịnh Bắc Bộ. Về kinh tế, nguy cơ sớm nhất có thể xảy ra với một số mặt hàng lương thực, thực phẩm xuất khẩu, vì ở đây tiêu chuẩn về độc chất phóng xạ vốn rất gay gắt .”
3/ Khu Vực Tự Do Mậu Dịch Trung Cộng và Các Quốc Gia Đông Nam Á ( ASEAN-China Free Trade Area / ACFTA )
Khu Vực Tự Do Mâu Dịch Trung cộng và các Quốc Gia Đông Nam Á (ACFTA) là một khu vực mậu dịch tự do giữa mười quốc gia hội viên ASEAN và Trung cộng. Thoả hiệp khung sườn sơ khởi đựơc ký ngày 4 tháng 11 năm 2002 tại Nam Vang, Cambodia, nhằm thiết lập một Khu Vực Tự Do Mậu Dịch có hiệu lực ngày 1 tháng 1 năm 2010. ACFTA là khu vực tự do mậu dịch có số dân lớn nhất thế giới, hàng thứ ba về tổng sản lượng nội điạ thuần danh (nominal GDP), sau Khu Vực Kinh Tế Châu Âu (European Economic Area) và Khu Vực Mậu Dịch Tự Do Bắc Mỹ ( North American Free Trade Area).
Nhìn vào những số liệu căn bản sau đây có thể so sánh được khả năng và giới hạn cuả Việt Nam trên lộ trình toàn cầu hóa.
Tên Quốc Gia . Diện tích (km2) . Dân số . GDP(blnUSD).
Brunei 5,765 490,000 19.7
Myanmar 676,578 50,020,000 26.2
Cambodia 181,035 13,388,910 11.3
Indonesia 1,904,569 230,130,000 511.8
Laos 236,800 6,320,000 5.4
Malasia 329,847 28,200,000 221.6
Philippines 300,000 92,226,600 166.9
Singapore 707.1 4,839,400 181.9
Thailand 513,115 63,389,730 273.3
Vietnam 331,690 88,069,000 89.8
ASEAN 4,480,160 577,071,000 1,507.9
Trung Cộng 9,640,821 1,338, 612,968 4,327.4
4/ Đông Nam Á và Sự Giao Thương Với Các Cường Quốc
Đối trọng với Trung cộng, các cường quốc khác cũng không bỏ lỡ cơ hội liên kết với các quốc gia Đông Nam Á, thành hình những thoả hiệp tự do mậu dịch :
- Khu Vực Tự Do Mậu Dịch Ấn Độ và Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN-India Free Trade Area - AIFTA).
- Đối Tác Kinh Tế Toàn Diện Nhật và Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN-Japan Comprehensive Economic Partnership – AJCEP).
- Khu Vực Tự Do Mậu Dịch Triều Nam Hàn và Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN-Korea Free Trade Area – AKFTA) .
- Diễn Đàn Các Quốc Gia Đông Nam Á + Ba (Asean Plus Three – APT) gồm 10 nước Đông Nam Á cộng thêm Trung cộng, Nhật Bản, Nam Triều Tiên.
- Đối Tác Kinh Tế Toàn Diện Đông Á Châu (Comprehensive Economic Partnership for East Asia – CPEA). Thoả hiêp được tạo lâp do đề nghị cuả Nhật Bản nhằm mở rộng sự hợp tác và trao đổi thương mại giữa các quốc gia có vị trí điạ lý phiá Đông Á Châu. Số hội viên tham dự gồm 16 quốc gia hiện hữu trong tổ chức Thượng Đỉnh Đông Á (East Asia Summit) liệt kê như sau : 10 nước trong Hiệp Hội Đông Nam Á và Trung Cộng, Ấn Độ, Nhật Bổn, Nam Hàn, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan.
oOo
Dân Tộc Việt Nam lập quốc trên bán đảo Đông Dương trải qua năm ngàn năm với đầy đủ những yếu tố cơ hữu : nòi giống, ngôn ngữ, văn hoá và ý chí sinh tồn. Nước Việt Nam được xem như một hành lang cuả toàn vùng Đông Nam Á với diện tích hơn 300.000 km2, lưng dựa vào lục điạ, mặt nhìn ra Thái Bình Dương. Đây là khu vực điạ lý chịu đựng và chứng kiến những biến chuyển cuả lịch sử nhân loại từ cổ chí kim.
1)- Phần lịch sử toàn cầu hoá nêu trên nhắc đến giấc mơ và hành động cuả các triều đại hưng thịnh phương bắc - Hán, Đường, Mông- vó ngựa và gươm giáo của họ chuyển động từ đông sang tây đến Cận Đông và Đông Âu, đồng thời chế ngự Việt Nam và phần luc điạ Đông Nam Á. Trong thời đại khai phá (The Age of Discovery), người Tây Âu với chiến thuyền và thần công đại bác cũng đặt ách thống trị, khai thác tài nguyên, nhân lực toàn vùng Đông Nam Á, ngoại trừ Thái Lan. Người Pháp do nhu cầu giao thương với vùng Hoa Nam đã đánh chiếm Việt Nam, Lào, Cambodia làm thuộc điạ.
Để dành lại sự sống còn cho dân tộc, các tầng lớp sĩ phu từ Nam chí Bắc thành lập các phong trào Cần Vương, Văn Thân, Đông Du, Duy Tân… đánh đuổi thực dân Pháp. Tháng 2 năm 1930, Việt Nam Quốc Dân Đảng dưới sự lảnh đạo cuả Nguyễn thái Học kết hợp nam nữ thanh niên, sinh viên, nông dân, công nhân, binh lính phát động khởi nghĩa Yên Bái. Cuộc cách mạng từ lý thuyết Tam Dân (Dân Tộc, Dân Quyền, Dân Sinh) bị dìm trong biển máu, tuy không thành công nhưng thành nhân, là thiên thời nâng cao hào khí dân tộc, nhắc nhở mọi người bền tâm vững chí. (Một nữ liệt sĩ VNQDĐ trước khi tự sát đã lưu lại một bài thơ : …‘‘Cầu ơn Phật Tổ cho tái kiếp. Xin tay nghìn cánh, súng nghìn cây…’’). Từ đó, những người con trung hiếu cuả dân tộc quan tâm nhiều hơn về các biến chuyển trên thế giới, lý thuyết chính trị, tư tưởng và văn hoá phương Tây.
Kế thừa truyền thống, Trương tử Anh, một sinh viên Đại học Hà Nội, công bố văn kiện căn bản Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn năm 1938, và thành lập Đại Việt Quốc Dân Đảng năm 1939. Trí tuệ và luơng tâm của dân tộc Việt Nam có cơ sở làm nơi hội tụ.
2)- Song song với những hy sinh xương máu, Nguyễn tất Thành một thanh niên chưa đủ kiến thức và kinh nghiệm đã nhanh nhẩu tham gia đảng cộng sản Pháp và rồi trở thành cán bộ của Đệ Tam Quốc Tế chỉ huy từ Mạc tư Khoa. Trong mạng lưới Mafia chính trị đầy quyền lực nầy, Nguyễn tất Thành được giáo dục về lý thuyết quốc tế vô sản, thủ đoạn cướp chính quyền và thực thi chuyên chính vô sản …
Người thanh niên Nguyễn tất Thành sau nầy là Hồ chí Minh có trí khôn vừa đủ để nhận thấy rằng từ Stalin đến Mao trạch Đông là những lãnh tụ có tham vọng chuá tể, sẵn sàng thanh toán những đồng chí thân cận thiếu trung thành, tư tưởng lệch lạc . Hồ và các thế hệ đệ tử nhìn thấy những bài học trước mắt, sẵn sàng chấp nhận thân phận cán bộ trung kiên, chịu khuất phục hết Mạc tư Khoa đến Bắc Kinh để kiếm vinh quang và no ấm cho bản thân, góp phần nuôi sống đảng cộng sản.
Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam tập I xác định “Chúng ta theo chủ nghĩa quốc tế, không theo chủ nghiã quốc gia…Chúng ta phải nêu cao tinh thần đấu tranh giải phóng nghiã là hình thức thì dân tộc mà nội dung là quốc tế.” Kinh điển nầy là “đạo đức” để các thế hệ cộng sản Việt Nam thi hành những chính sách, biện pháp chuyên chính sắt máu với đồng bào, kể cả nguời cùng gia đình, gia tộc mà không một chút hối hận, ăn năn hoặc sám hối. Cho đến ngày hôm nay, cộng sản Việt Nam vẫn không quên lặp lại khẩu hiệu quen thuộc : chuyên chính vô sản, bạo lực cách mạng, xây dựng chủ nghiã xã hội, quốc tế vô sản … khi cần.
3)- Napoleon Bonaparte đã nói Trung Hoa là con rồng ngủ và cảnh cáo đừng đánh thức nó dậy. Ngày nay Trung Hoa đã tỉnh giấc, gây ra sự lo nghĩ và lo sợ cho nhiều quốc gia, kể cả Hoa Kỳ.
Sự vươn lên không lường trước được cuả Trung Cộng (PRC) là một thực tế toàn cầu. Từ một trong những quốc gia yếu kém trước 1970, Trung Cộng phát triển thành một trong những nền kinh tế cường thịnh nhất vào cuối thập niên 1990. Theo báo cáo cuả Ngân Hàng Thế Giới và Qủi Tiền Tệ Quốc Tế, từ 1979 đến 1997 tổng sản lượng (GDP) cuà Trung Cộng gia tăng trung bình 9,8% mỗi năm. Sự tăng trưởng kinh tế vượt bậc nầy tạo cơ hội Trung Cộng gia tăng ngân sách quốc phòng. Trước đây, Trung Cộng còn vờ vịt che giấu nay thì công khai, huênh hoang phô trương từ máy bay tàng hình, hoả tiễn đạn đạo tầm xa, tiềm thủy đỉnh vận hành bằng năng lượng nguyên tử, và sắp chào đời một hàng không mẫu hạm.
Ngoại trường Nhật Seiji Mahehara phát biểu về ngân sách quốc phòng năm 2011 cuả Trung Cộng : “Chúng tôi không thể không lo ngại về cách thức sử dụng ngân sách nầy”.
Ủy Ban An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ/Thế kỷ 21 (The US Commission on National Security/21st Century) cảnh cáo rằng : “Xung lực cạnh tranh giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng càng gia tăng khi Trung Cộng ngày càng lớn mạnh”. Hội đồng Tình Báo Quốc Gia Hoa Kỳ (The US National Intelligence Council) nhận định : “Sự vươn lên cuả Trung Cộng tạo ra một thế bất ổn lớn nhất trên thế giới”. Ủy Ban Quyền Lợi Quốc Gia Hoa Kỳ (The Commision on America’s National Interests) và Hội Đồng Liên Lạc Quốc Ngoại (Council on Foreign Relations) có những ý kiến giống nhau khi mô tả Trung Cộng như là một đối thủ chiến lược then chốt và có thực lực đặt ra những thách đố kinh tế, chính trị, quân sự với Hoa Kỳ và các quốc gia Đông Nam Á .
Trung Cộng đối với thế giới nhiều lần nguy hiểm hơn Osama Bin Laden và Hồi giáo quá khích, không những do tiềm lực to lớn về kinh tế, quân sự mà còn từ chủ nghiã dân tộc Đại Hán. Trong tác phẩm Dân Tộc Chủ Nghĩa Trung Hoa trong Thời Đại Toàn Cầu (Chinese Nationalism in the Global Era), tác giả Christopher R. Hughes viết rằng “Chủ nghiã yêu nước được áp dụng kể từ cuối thập niên 1970, nối kết với cải tổ kinh tế, chính sách đoàn kết dân tộc và chính sách đối ngoại, tạo thành một ý thức hệ nhằm hợp pháp hoá chế độ cộng sản Trung Quốc”. Chủ nghĩa aí quốc và chủ nghĩa dân tộc đang ngấm sâu vào tiềm thức cuả đa số dân chúng trong lục điạ và đuợc phổ cập đến người Hoa khắp nơi trên thế giới nhắc nhở họ không bao giờ được quên nguồn gốc. Bài nói chuyện cuả tướng Trì hạo Điền mấy năm trước với ngôn ngữ hiếu chiến, hiếu sát vượt xa Hitler. Giữa năm 2008, môt cuộc biểu tình bạo động, chưởi bới thô tục trước siêu thị Carrefour tại thành phố Côn Minh chỉ vì một tin trên Internet cho biết chủ nhân siêu thị và các cổ đông có góp tiền cho Đức Đạt Lai Lat Ma . Gần đây nhất, khi truyền thông quốc tế đưa tin về nhân vật Philipp Rosler, một người con nuôi Việt Nam thành công trên chính trường Đức Quốc, lôi cuốn sự quan tâm khắp nơi trên thế giới, môt số đông người Hoa tham gia ý kiến sôi nỗi và đồng thuận với nhau rằng Philipp Rosler là người Hoa sinh truởng tại Việt Nam (a chinese ethnic born in Viet Nam).
4)- Lịch sử toàn cầu hoá đã ghi lại những giai đọan con người phát triễn mối quan hệ gần nhau do nhu cầu sinh tồn và hiện trạng xã hội. Bước vào thế kỷ 21 những thành tựu về thông tin liên lạc, giao thông vận tải, trao đổi thương mại nở rộ, là cơ hội phát sinh tư tưởng và hành vi tạo nên một mạng lưới nối kết các yều tố kinh tế, xã hội, văn hoá xuyên qua biên giới quốc gia, bắt đầu lại một kỷ nguyên toàn cầu hoá.
Các quốc gia trên thế giới đều chấp nhận tiến trình chung nầy với những khả năng và hậu quả khác nhau, riêng Việt Nam và sự sống còn cuả dân tộc đang đối phó với nhiều thử thách.
Các ngòi nổ cuả thế giới đang tập trung tại vùng Tây Thái Bình Dương, khởi đầu từ vĩ tuyến 38 chia đôi Nam và Bắc Hàn, nội hải Hoàng Hải - ao sen tiền đình cuả Trung Cộng - thường xuyên bị hạm đội cuả liên quân Mỹ-Nam Hàn-Nhật thao diễn, tranh chấp đảo Điếu ngư và khu vực dầu khí giữa Trung Cộng và Nhật Bản, eo biển Đài Loan, biển Đông Việt Nam.
Những người theo dõi thời cuộc đều nhận định rằng biển Đông Việt Nam hay là tứ giác Việt-Trung-Phi-Mã, mới là một điểm chiến lược trọng yếu cuả Trung Cộng. Nơi đây là đường hàng hải quan trọng bậc nhất, giao lộ qua lại cuà các chiều Bắc Nam, Đông Tây, chuyên chở nguyên liệu, nhiên liệu, thành phẩm, hàng hoá từ nơi sản xuất đến tiêu thụ…Biển Đông Việt Nam cũng là kho tàng vô giá, nơi sinh sống cuả các đàn cá, hải sản, trầm tích cuả nhiều kim loại qúi, trữ lượng to lớn dầu thô (4,5km3 hay là 28 tỉ barrels) và khí thiên nhiên (7.500km3 hay là 266 ngàn tỉ feet khối -266 trillion cubic feets-).
Trí tuệ và chủ nghiã dân tộc Trung Cộng toan tính rằng bằng mọi giá - nhu hay cương, trường kỳ hay chớp nhoáng - chiếm nốt quần đảo Trường Sa hoặc thuộc điạ hoá Việt Nam, sẽ làm chủ Biển Đông, trực tiếp khống chế toàn vùng Đông Nam Á. Các điểm nóng hay ngòi nổ còn lại không đủ sức áp đảo Trung Cộng, sẽ tự tan biến do khéo léo trao đổi giữa các bên liên hệ.
Hiện trạng nầy là nguyên nhân thúc đẩy các cường quốc Mỹ, Nhật, Nam Hàn, Úc, Tân Tây Lan, Ấn Độ, Pháp và một số nước Tây Âu viện trợ và đầu tư vào Việt Nam, ký những thoả hiệp hợp tác thương mại với các quốc gia Đông Nam Á. Cộng sản Việt Nam lợi dụng thời cơ, dùng dân tộc và lảnh thổ Việt Nam như là “con tin” để trao đổi quyền lợi riêng tư, tiếp tục tham nhũng, xử dụng bạo lực trấn áp các đòi hỏi chính đáng về một chế độ tự do, dân chủ.
Cũng như các biến chuyển xã hội khác, toàn cầu hoá có nhiều mặt tiêu cực và tích cực, là cơ hội cho mỗi dân tộc có đủ khả năng khai dụng những yếu tố tích cực tiếp tục tồn tại và vươn lên. Nó không phải là phương tiện cho nhóm người gian ác mưu đồ lợi ích riêng tư gây ra những thiệt hại to lớn cho dân tộc.
Toàn cầu hoá là một bài toán lớn và phức tạp đỏi hỏi một trình độ tri thức tương xứng để hiểu biết đầy đủ, một luơng tâm trong sáng rộng mở để xét đoán không thiên lệch. Sự tồn vong cuả dân tộc Việt Nam trong thời đại toàn cầu hoá dựa vào trí tuệ cuả dân tộc Việt Nam và luơng tâm cuả dân tộc Việt Nam. Trước mắt, Trí Việt Nam, Tâm Việt Nam tập trung giải quyết đảng cộng sản Việt Nam và chế độ toàn trị hiện hành.
LẠC VIỆT (5/11)
No comments:
Post a Comment