Mảnh Da Vàng
Tác giả sinh năm 1945 tại Quảng Bình, di cư năm 1954; Nhập ngũ năm 1965 tại Trường Bộ Binh Thủ Đức; Qua Mỹ theo chương trình HO năm 1995. Tuy Chu Lynh nói ông không phải là nhà văn, nhưng một số truyện ngắn, bài viết do ông là tác giả đã được phổ biến rộng rãi trên các trang web việt ngữ. Đồng thời ông cũng là editor cho một số phim tài liệu đã được phổ biến rộng rãi như: Sự Thật về Hồ Chí Minh, Ho Chi Minh The Man and The Myth, Đại Họa Mất Nước. Bài viết sau đây theo tác giả, là câu chuyện Việt Nam thời ly loạn, khởi đầu tại một làng quê Quảng Bình từ giữa thế kỷ trước, trải dài tới khung cảnh Thư viện George Mason ở Virginia thời nay. Trong cuộc thi viết tại trường NOVA College, bản anh ngữ của bài viết này đã được tặng giải thưởng hạng nhất, trong khi một cô bé trong số du học sinh chiếm được giải nhì. Mong tác giả sẽ tiếp tục viết thêm.
**************
**************
Đã từ lâu, tôi muốn viết về quãng đời niên thiếu kém may mắn của mình, nhưng vẫn chưa tìm được ngày tháng yên hàn để thực hiện giấc mơ. Chinh chiến đã xô đẩy tôi phiêu bạt khắp nơi. Khi chiến tranh chấm dứt, tôi bị lùa vào các trại tập trung. Thoát vòng lao lý, tôi phải lang thang nhiều nơi tìm kế mưu sinh. đến xứ người, tôi vẫn chưa tìm được những khoảnh khắc yên vị để thu nhặt lại những mảnh đời đã lạc khuất trong quá khứ.
Tôi vừa kỷ niệm sinh nhật. Tuổi ngũ thập, tuổi tri thiên mệnh. Chuyện ngày mai, tôi có thể nghi hoặc về những dự đoán hay toan tính của mình. Nhưng chuyện ngày qua, tôi tin những tương quan trong quá khứ chưa hẳn đã chấm dứt, có thể ẩn mình đâu đó như con thú ngủ giấc đông miên, rồi bỗng một hôm thức giấc tiếp tục cuộc hành trình.
Đã đến lúc tôi cần viết ra câu chuyện của chính tôi mà không một chút hoài nghi về sự tương quan kỳ diệu Thương đế đã xếp đặt. Tôi nghĩ đây không còn là chuyện của riêng tôi, mà của một dân tộc chìm đắm trong oan nghiệt một ngàn năm, một trăm năm, rồi mấy chục năm đăng đẳng mà vẫn chưa ló dạng ánh sáng của phục sinh, đêm canh thức vẫn còn thăm thẳm. Như thể chiếc đũa thần đâu đó chưa buông tha dân tộc khốn khổ nầy, vẫn còn khuấy động giòng sông quê hương thêm những đợt sóng bi thương khác.
Mời bạn cùng tôi ngược giòng thời gian, về lại chốn xưa, với những hình ảnh tưởng đã xóa mờ, nhưng lạ thay vẫn còn sống động trong trí nhớ tôi như vừa mới hôm qua.
***
Giao thừa năm Mậu Thân, 1968.
Thay cho tiếng pháo nổ rền để đón chào giờ phút thiêng liêng của một năm mới, là những đợt pháo kích dồn dập của Cộng quân vào khắp nơi thị xã Banmêthuột. Có người vẫn ngỡ tiếng pháo giao thừa, không tin chiến tranh có thể nhẫn tâm dẫm lên truyền thống dân tộc. Qua máy truyền thanh, tôi biết tin khắp toàn lãnh thổ miền Nam nằm trong chết chóc kinh hoàng bởi trận tổng công kích của Bắc quân.
Thoạt đầu, các đơn vị đồn trú chịu một số thiệt hại do pháo kích, nhưng sau đó được củng cố hệ thống phòng thủ, bắt đầu phản công mãnh liệt. Cường độ tấn công của địch quân giảm dần sau hơn mười ngày giao tranh. Thiếu tiếp liệu, chịu nhiều tổn thất nặng do đạn pháo binh và phản lực oanh kích, Bắc quân đành tháo chạy, bỏ lại những xác chết la liệt quanh vòng đai thị xã.
Tờ mờ sáng, đơn vị tôi tổ chức lục soát ngoài hàng rào phòng thủ. Toán pháo binh tăng cường cho đơn vị chấm tọa độ khá chính xác. Hơn mười xác địch bỏ lại rải rác bên dốc suối. Thật không thể tin được, những người lính nầy còn quá trẻ. Hà Nội đã vét đến những thiếu niên vào chiến trường miền Nam. Trong khi lục soát, tôi chú ý một thây người khuất trong bụi rậm. Thân hình nằm nghiêng, tay còn ôm cái túi xách quàng vai dành cho cán bộ. Vũ khí không còn, chắc đồng đội đã thu nhặt trước khi rút lui. Ngoài giấy tùy thân của một cán bộ chính ủy, tôi tìm thấy trong túi áo một cái ví da màu vàng cũ, bên trong là một tấm hình đôi trai gái, mặt sau ghi vụng về hàng chữ: Hoàng Thanh - Đoàn Thị Định. Trở về văn phòng, tôi cứ ngờ ngợ, dường như khuôn mặt người thanh niên trong ảnh tôi đã gặp đâu đó trong quá khứ. Khi giao nộp chiến lợi phẩm cho đơn vị, không hiểu sao tôi giữ lại chiếc ví da và tấm hình. Chiếc ví bằng da thuộc đã bạc màu được may rất khéo, hẳn là vật kỷ niệm của một người con gái tiễn người yêu lên đường. Khuôn mặt người trong ảnh đi vào tâm trí tôi. Hai tuần lễ sau, tôi đã nhớ ra người thanh niên ấy...
1954. Quảng Bình, bên kia bờ vĩ tuyến, những ngày sau khi ký kết Hiệp Định Genève.
Qua một người bà con tín cẩn, mẹ tôi biết được tin Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát đình Chiến cho phép dân chúng di cư vào Nam. Sau khi tin tức ấy được loan nhanh trong dân chúng, từng toán bộ đội vội vã đến đóng quân ngay trong làng với nhiều máy móc truyền tin và sách báo. Họ chia từng toán nhỏ vào ở từng nhà, bắt đầu chiến dịch tuyên truyền, vào Nam là sẽ chết đói trong các trại tập trung của Mỹ-Diệm, ở lại quê nhà sẽ được Bác và đảng bảo đảm đời sống no ấm. Họ dạy anh em tôi nhảy những vũ điệu theo những bài hát như: Thắm thiết tình Việt-Trung-Xô:
đế quốc càng đầy mối lo
đó là tình người lao động
Mối tình tràn ngập núi sông có công xây đắp tình Việt-Trung-Xô...
Việt-Miên-Lào bên nhau ta cùng chiến đấu.
Việt-Miên-Lào căm thù đế quốc đi sau...
Hoặc
Cuốc cày của ta là súng ống.
Ruộng đồng của ta là áo cơm
Thôn quê của ta là chiến trường.
Nông dân của ta là chiến sĩ...
Họ biến nhà thờ thành nơi nhảy nhót và hội họp. Họ theo sát mẹ tôi mỗi khi người qua nhà hàng xóm. Họ kiểm thảo ngay khi thấy có hai người nói chuyện riêng. Không như ở các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, làng quê tôi mù tịt với thế giới bên ngoài, nhất cử nhất động của dân làng đều bị theo dõi để chận đứng mọi ý định rời đất Bắc... Đối với tôi, việc gặp lại ba tôi trên đất Nam chỉ là một giấc mơ.
Hoàng Thanh là tên người lính trẻ nhất ở trong nhà tôi. Anh ta tỏ ra gần gũi bốn anh em tôi, đôi khi đến bửa ăn còn cho em gái tôi một chén cơm trắng. Mỗi đêm, anh ta thường đứng dựa cột nhà đầu giường mẹ tôi, nói về những xã hội tốt đẹp ở những miền xa xôi như Trung Quốc, Liên Xô. Anh ta còn báo động về cảnh nghèo đói ở Miền Nam và cảnh đạp lên nhau mà chết trong các trại tập trung.
Mỗi tuần hai lần, anh bộ đội nầy dẫn hai anh em tôi đi xem đấu tố địa chủ ở làng trên. Tôi thường sợ hãi mỗi khi nhìn người đàn bà mặc đồ đen trên khán đài dõng dạc tuyên án tử hình hay cải tạo lâu dài những người bà nói là bọn phản động, địa chủ, cường hào ác bá bóc lột nhân dân. Nhưng không hiểu sao hai anh em tôi lại thường xuyên theo anh bộ đội có mặt trong mọi cuộc đấu tố. Sau nầy, tôi nghĩ những câu chuyện gần như thần thoại về những người du kích anh dũng chống Pháp anh ta thường kể trên con đường đê đến địa điểm đấu tố, đã hấp dẫn đứa bé bảy tuổi như tôi, một đứa bé không người cha bên cạnh trong những ngày bơ vơ nơi làng quê quanh năm nghèo đói.
Tôi còn nhớ như in buổi đấu tố địa chủ cuối cùng. Khi tôi đến thì địa điểm đã đầy ắp người đến từ các thôn xã trong vùng. đó là một mảnh đất rộng ngay trung tâm làng, được chia thành nhiều lô cho từng thôn. Một khán đài dựng sát bụi tre có băng chữ Tòa Án Nhân Dân với những cán bộ mặc đồ đen lầm lì đang nhìn xuống phía dân chúng. Trước mặt khán đài là những ghế băng dành cho các viên chức thôn xã, bên trái là vành móng ngựa bằng tre dành cho tội nhân, bên phải là khu vực dành cho mấy chục nhân chứng được bao quanh bằng những sợi dây thừng.
Như thường lệ, người đàn bà quan trọng nhất của Tòa Án Nhân Dân đứng lên tuyên bố khai mạc, nói rõ tên địa chủ cần xét xử. Sau khi bà khi dứt lời, một người đàn ông đứng lên hô to các khẫu hiệu: Hồ Chí Minh muôn năm! đả đảo địa chủ! đả đảo đế quốc! Dân chúng đồng loạt gào theo hai chữ muôn năm, đả đảo. Trong đêm tối, âm thanh vang vang trong không gian, dội vào lồng ngực, khiến tôi rùng mình sợ hãi. Hoàng Thanh luôn luôn ngồi sát bên tôi như một sự che chở.
Ở xa, tôi chỉ thấy thấp thoáng hai tên du kích đang áp giải một người đàn ông lớn tuổi, thỉnh thoảng một trong hai tên dộng báng súng vào lưng người đàn ông. Sau cùng, tên thứ hai đẩy mạnh nạn nhân vào trong vành móng ngựa. Ông ta ngã xuống, nhưng cố gượng đứng dậy. Hai ngọn đèn măng sông không đủ sáng để soi rõ khuôn mặt bị cáo. Một cán bộ trên khán đài đứng lên đọc một bản cáo trạng dài, cứ vài phút, như muốn nhấn mạnh tội ác, ông ta lại chỉ vào vành móng ngựa mà la lớn tên địa chủ nầy phải đền tội. Tôi không nghe người địa chủ nói được tiếng nào, thỉnh thoảng lại khuỵu xuống, người đàn bà lại kết án ông ta ngoan cố. Không được lên tiếng, ngược lại con người bất hạnh nầy lại bị mấy chục người trong khuon giây thừng làm nhân chứng kể những tội ác tày trời. Sau nầy mẹ tôi cho hay họ bị buộc phải kể ra những tội ác tưởng tượng như thế.
Trước khi tuyên án, người đàn bà áo đen lại đứng lên kể công ơn và sự khoan hồng của Bác và đảng đối với những kẻ có tội biết ăn năn, nhưng với những tên địa chủ ác ôn phản cách mạng như đoàn Tấn hôm nay phải bị trừng trị đích đáng. Bà tuyên án tử hình người địa chủ. Liền sau đó, rừng người bị kích động đồng loạt đứng dậy, vung tay lên không, hô to những khẩu hiệu của người đàn ông trên khán đài. đả đảo tên địa chủ đoàn Tấn!
Tôi giật bắn người lên khỏi thảm cỏ. Anh bộ đội không hiểu được cử chỉ bất thường hôm nay của đứa bé. Tôi chạy lại gần sân khấu, nhìn cho rõ khuôn mặt người đàn ông lúc nầy đang run rẩy bám vào khung tre. Tôi cứ ngỡ mình nghe lầm, nhìn lầm. Nhưng là sự thật. Bác tôi, đoàn Tấn họ vừa kết án tử hình.
Trong làng tôi, còn ai hiền từ hơn bác Tấn? Trong giòng họ, có ai săn sóc gia đình tôi trong những ngày ba tôi biền biệt phương xa ngoài bác Tấn? Vậy mà hôm nay, bác Tấn là địa chủ ác ôn. Một nỗi sợ hãi chạy khắp toàn thân. đột nhiên, tôi hiểu được rằng những gì đã xảy ra trong những buổi đấu tố hoàn toàn dối trá và bịa đặt. Theo anh bộ đội trở về nhà, tôi ngậm tăm không nói một câu. Con đường đê hôm ấy dài hun hút. Anh ta không hiểu bên trong sự im lặng của tôi là một trận bảo ngầm.
Một người bà con đã tiết lộ cho mẹ tôi hay chính anh bộ đội Hoàng Thanh đã làm việc với Ủy Ban Hành Chánh Xã và đưa tên bác tôi vào danh sách địa chủ phải đấu tố. Tôi nói với mẹ tôi, hảy coi chừng những anh lính trong nhà mình và mẹ hảy cương quyết xin cho được tờ giấy vào Nam. Sau mấy tháng chạy đôn chạy đáo lên huyện xuống xã, họ đã chịu cho mẹ và anh em tôi ra đi đầy đủ, không như các gia đình khác họ cố tình giữ lại một hai người.
Ngày ra đi, giòng họ tôi như một đám tang. Nỗi vui gặp lại ba tôi phải dấu kín trong lòng, chỉ có nước mắt tuôn ra. Tôi không thể nào quên được hình ảnh bà cố tôi chín mươi tuổi run run chống gậy đứng bên hông nhà, đôi mắt nhìn vào khoảng không. Không một giọt nước mắt, nhưng tôi biết bà đang đau đớn tận cùng cảnh chia ly vĩnh viễn những đứa cháu bà đã chăm sóc bao nhiêu năm trời.
Thật lạ lùng, trước khi ra khỏi địa phận làng, tôi thấy anh bộ đội Hoàng Thanh đang đứng bên đường cùng vài người lạ khác. Lúc nầy tôi nhìn anh ta như một bóng ma cần phải trốn chạy. Anh ta nói gì đó thật tha thiết với mẹ tôi nhưng mẹ tôi vẫn dửng dưng. Quay qua xoa đầu tôi, anh bỗng bật khóc, nói rằng tính mạng anh em tôi rồi sẽ bị Mỹ-Diệm hành hạ dã man cho đến chết trong các trại tập trung. Tôi rùng mình. Hai khuôn mặt đã in đậm mãi trong ký ức tôi ngày ra đi, bà cố tôi và anh bộ đội Hoàng Thanh, một người để yêu thương và một người để sợ hãi.
Phải một tháng sau khi đến thành phố Huế, tôi mới gặp lại ba tôi. Ba tôi trở về sau một cuộc hành quân. Gia đình tôi đã sum họp, nhưng với tôi nửa phần hồn đã để lại quê nhà. Tuổi ấu thơ, con đường làng, cơn gió buốt mùa đông, cây rau tràng đắng nghét ngoài đồng sau mùa gặt, mái tranh nghèo và những người dân quê dạt dào tình thôn xóm đã chiếm hẳn một phần trong ký ức tôi. Tôi thích sưu tầm những bài hát về đồng quê. Mỗi khi hát bài Tôi Yêu Quê Tôi, là tôi nhớ từng con đường nơi tôi đã sinh ra, mảnh đất nghèo ấy đã ấp ủ và nuôi sống tuổi thơ tôi. Nhớ đến làng quê là tôi nhớ đến bà cố, nhớ từng nếp nhăn trên trán bà, rồi bất ngờ tôi có thể khóc dễ dàng như một đứa bé. Trẻ con trong xóm thường nhờ tôi dạy chúng những vũ điệu Việt Minh. Chúng nói điệu nhảy ngồ ngộ. Nhưng tôi lại thích kể những cuộc đấu tố để chúng sợ hãi.
Ba mẹ tôi gởi tôi vào một trường nội trú. Con đường học vấn của tôi đang đi lên đầy hứa hẹn, thì chiến tranh bùng nổ dữ dội. Cuối tuần về thăm nhà, tôi phải vượt qua những con đường đắp mô, có khi bị lùa vào rừng cao su nghe quân giải phóng tuyên truyền, rồi chạy bán sống bán chết khi biệt kích đột nhập giải vây hành khách. Hai anh tôi đã vào quân ngũ, ba mẹ tôi kỳ vọng nơi tôi một đứa con đỗ đạt. Mặc cho ba mẹ tôi ngăn cản, tôi nộp đơn tình nguyện vào trường Bộ Binh Thủ đức. Tôi biết điều gì đã thúc đẩy tôi bỏ nghiệp thư sinh để nhập vào giòng chiến tranh.
Chiến tranh đã lên đến cao điểm. Càng nhiều tổn thất, càng nhiều thanh niên trẻ bị đưa vào lò thuốc súng. Một bên để bảo vệ và một bên để xâm chiếm. Khắp nơi chỉ có tàn phá và hủy diệt. Người ta chỉ xây dựng tạm thời nhưng rồi cũng bị tàn phá và hủy diệt. Miền Nam như đã chiến thắng trên các mặt trận, nhưng lại thất bại trên các lãnh vực khác. Thay vì tìm hiểu cội gốc của chiến tranh, một số người đắm mình trong giòng nhạc ru ngủ, cổ vũ luận điệu chủ hòa như những món thời trang cần chạy theo. Tại Hoa Kỳ, những kẻ chủ trương rút khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam, những trí thức phản chiến bạc nhược cộng với mưu đồ của cộng sản quốc tế đã dẫn đến một Hiệp định mở đường xâm lăng cho Bắc quân và trói tay quân lính Miền Nam. Tất cả đã dẫn đến thảm nạn: làn sóng xâm lăng đã nhuộm đỏ Miền Nam.
Những gì xảy ra sau đó? Thế giới đã thấy rõ, nhưng tất cả đã muộn màng. Ngay cả những nhận thức đứng đắn về cuộc chiến cũng cần đến mấy chục năm sau. Lớp lớp người bị đưa vào các trại tập trung nơi rừng thiêng nước độc. Dân thành phố phải giao lại sản nghiệp của mình cho kẻ chiến thắng chiếm hữu để lên sống vất vưởng trên các vùng kinh tế mới đầy muổi và vắt. Chưa hết, mong tìm tự do ở bất cứ nơi dâu, ngươi ta đã bỏ xác trên biển cả, trong rừng sâu. Nhân loại chỉ thổn thức trên ngôn từ, có chăng là chia sẻ một chút từ tâm nào đó, để rồi lại tiếp tục chứng kiến những cảnh man rợ giữa những người cùng màu da giòng máu. Quê hương tôi đã tan nát trong chiến tranh, tiếp tục vỡ ra từng mảnh sau ngày im tiếng súng.
Tôi theo giòng người lưu cư trên cuộc hành trình của thảm trạng lưu đày Babylone. Ngày rời đất Bắc, tôi chưa đủ khôn lớn để khóc cho một đời người. Ngày rời quê hương, tôi mang theo cả một trời tang thương về đất nước. Tôi mang theo hình ảnh những thương bệnh binh bị đẩy ra khỏi các Quân Y Viện với thương tích trên thân thể để đau tận tâm can phận người dân Việt dưới bàn tay tàn độc của người cộng sản. Tôi mang theo hình ảnh ba tôi quằn quại trên giường bệnh bên cạnh những bác sĩ vô lương để đau xé ruột đấng sinh thành ra đi trong uất hận. Và tận cùng hành trang qua xứ người, tôi mang theo ước vọng ngày về với một đất nước thay da đổi thịt ...
1998. Thư viện George Mason, Virginia.
Tôi đánh rơi một cuốn sách khi tiến đến quầy check-out. Tôi nghe đâu đó ai gọi tên tôi. Bảo Trâm, cô bạn cùng lớp đứng bên cạnh là một cô gái. Cô gái để tóc khá dài, khuôn mặt hơi gầy, dáng dấp là lạ. Bảo Trâm giới thiệu Hoài Nguyên là du học sinh từ Việt Nam, đang học trường Nova.
Chúng tôi làm quen với nhau. Tôi hỏi thăm cô tình hình ở Việt Nam, cô gái Bắc dường như không sốt sắng trả lời. Vậy mà sau đó, cô lại nhận lời đi dự buổi picnic của những sinh viện Việt Nam tại Springfield tháng tới. Tôi bỗng có ý định muốn tìm hiểu những du học sinh mà chế độ cộng sản đang gởi qua hàng loạt. Tôi nghe nói gia đình họ chịu bỏ ra một số tiền lớn để lo lót cho con cái được qua đây du học, và bản thân các du học sinh nầy cũng không để tâm lắm đến việc học hành.
Công viên vào đầu thu chuyễn qua màu vàng nhạt khiến cảnh trí thêm sặc sở. Thiên nhiên như đang pha trộn sinh khí mới để thay cho mùa hè uể oải, nên người đến đây cảm thấy sảng khoái. Thanh niên Việt Nam dường như trở nên tươi trẻ hơn dân bản xứ, vui đùa ríu rít vơí những mẫu chuyện không dứt. Trên thảm cỏ, bốn người đang bày đồ ăn thức uống. Hoài Nguyên ngồi bên cạnh lễ phép mời tôi ăn. Không như lần đầu ngại ngùng tiếp chuyện, hôm nay cô có vẻ dạn dĩ và gần gũi hơn. Lối nói chuyện của cô hơi nghiêm trang nhưng thực tế, không khách sáo như các cô gái miền Bắc khác. Thấy tôi lớn tuổi, cô bắt đầu nhờ tôi chỉ dẫn vài điều. Cô đang cần việc làm bán thời gian để trang trải vài chi phí. Tôi cứ nghĩ đa số du học sinh như cô đâu có lo lắng chuyện tiền bạc.
Dần dà, tôi chú ý đến hoàn cảnh đặc biệt của Hoài Nguyên. Cô mồ côi cha lúc hai tuổi. Mấy năm sau đó, mẹ cô bị thương nặng trong trận không tập của máy bay Mỹ xuống thành phố Hải Phòng. Sau năm 1975, cô bỏ dở chương trình du học Liên Xô, để theo đoàn người vào Nam làm việc trong một xưởng xe đạp ở Saigon hầu lo lắng cho bà mẹ bị thương. Nhưng cuối cùng, bà đã ra đi vì thiếu phương tiện chữa trị. Cô vừa theo học ngành y vừa đi làm. Nhờ một người bà con làm việc trong chính quyền, cô xin được du học tại Mỹ. Cô cho rằng mình là người duy nhất không phải tốn tiền nhiều để lo lót cho các cán bộ chạy dịch vụ.Trong một thoáng, tôi bỗng muốn quan tâm đến người con gái nầy. Tôi muốn giới thiệu cho cô thêm nhiều người bạn Việt Nam ở đây. Tôi hỏi mà cô như không nghe. Dường như cô đang suy nghĩ điều gì. Cô ngập ngừng một lúc rồi nói:
- Cháu mồ côi cha từ nhỏ, có mẹ mà cũng như không. Cháu phải làm việc vất vả để nuôi thân và nuôi mẹ. Nhưng cháu không nề hà. Từ bao lâu nay, cháu chỉ có một ước muốn duy nhất là tìm được ngôi mộ của bố cháu và bốc cốt về làng.
Tôi buột miệng:
- Bố cháu có đi bộ đội không?
- Bố cháu là một chính trị viên.
- Bố cháu mất ở đâu?
- Dạ trong Nam.
- Ở đâu?
- Cháu không rõ. Người ta đồn bố cháu mất ở cao nguyên. Bố cháu ra đi lúc cháu mới hai tuổi, nên cháu không biết mặt, càng không biết gì nhiều ngoài những điều mẹ cháu nói.
Tôi đột ngột hỏi:
- Bố cháu tên gì?
- Dạ Thanh, Hoàng Thanh. Cô bỗng xoay qua nhìn tôi ngạc nhiên về câu hỏi.
Đột nhiên tôi liên tưởng đến quá khứ. Tết Mậu Thân Banmêthuột. Vòng đai phòng thủ đơn vị. Xác chết bên dốc suối. Chiếc ví da. Tấm ảnh cặp vợ chồng mới cưới. Hoàng Thanh - đoàn Thị định. Thây người trong bụi rậm ba mươi năm trước là cha của cô bé trước mặt tôi? Kẻ đã ở trong nhà tôi để ngăn cản gia đình tôi di cư vào Nam? Kẻ đã gián tiếp giết bác Tấn tôi? Tôi không nói một lời nào sau đó. Hết sức lúng túng, tôi hẹn Hoài Nguyên cuối tuần, cũng trong công viên nầy.
Tôi không tài nào ngủ được đêm đó. Trước mắt tôi cứ hiện ra người lính miền Bắc nằm nghiêng, tay còn giữ chặt túi vải, khuôn mặt như cố nhận ra sự phi lý ngay khi mảnh đạn pháo binh ghim vào lồng ngực. Tại sao tôi lại nhớ rõ mồn một từng chi tiết cuộc lục soát ngày hôm ấy? Tôi chập chờn thấy anh ta lăn lộn trong vũng máu, lăn tròn xuống suối, cán nát cỏ cây, bay lên không rồi hạ xuống, xoay không ngừng quanh vành móng ngựa bằng tre. Không là cơn ác mộng kinh hoàng, nhưng giấc mơ đã làm tôi suy nghĩ miên man những ngày sau đó, như thể quá khứ xa xăm đang tái diễn lại. Tòa án Nhân Dân lạnh lùng sát khí. Rừng người vung cánh tay lên la hét hoan hô đả đảo. Những ánh mắt sợ hãi. Người địa chủ gục xuống bên vành móng ngựa...
Lần đầu tiên, cô đến công viên mà không có bạn bè đi theo. Cô xuống xe buýt, đi chậm rãi đến chiếc ghế băng dưới tàn cây rậm. Cô nhìn quanh tìm tôi. Tôi ngồi trong xe quan sát. Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, một làn gió vừa thổi qua hay một âm thanh nào đó vang bên tai khiến tôi rùng mình. Có thể nào đứa con gái đang ngồi kia chính là giọt máu của người lính cộng sản mà gia đình tôi đã trốn chạy?
Khi đến bên Hoài Nguyên, tôi thấy cô không còn là đứa con gái tôi gặp lần đầu trong thư viện. Cô kín đáo mà cũng sẵn sàng trò chuyện, xa vắng nhưng lại gần gũi như một đứa con.Trên khuôn mặt cô, phảng phất một nỗi buồn từ bao giờ. Tiếc thay, tôi lại sắp mang đến cho cô thêm một nỗi buồn. Làm sao vào câu chuyện đây? Không chỉ là một tấm ảnh để trao lại, không chỉ là một cái chết sẽ nói ra. Sau cùng tôi cương quyết đi thẳng vào câu chuyện.
- Chú sắp nói cho cháu một chuyện quan trọng. Ba mươi năm nay, chú giữ một vật của một người lính miền Bắc đã chết trong trận đánh Tết Mậu Thân ở cao nguyên. Chú sẽ đưa cháu coi, xem có ... liên quan gì đến việc tìm kiếm bố cháu không.
Hoài Nguyên chăm chăm nhìn tôi. Tôi thấy môi cô mấp máy như hỏi tôi muốn nói gì.
Tôi lấy từ túi áo ra chiếc hộp. Hình như trong ba mươi năm qua, tôi không hề mở nó ra. Chiếc hộp đã theo tôi trên mọi nẻo đường đất nước và sau cùng là chuyến đi ngàn dặm qua xứ người. Có phải tôi giữ chiếc ví vì người trong tấm hình có liên quan đến gia đình tôi hay người khuất mặt muốn dùng tôi như một nhân chứng về số phận những kẻ bất hạnh trong cuộc chiến tranh nồi da xáo thịt?
Hoài Nguyên cầm lấy chiếc hộp và mở ra. Cô quan sát chiếc ví da, tôi không đoán được cảm xúc nào rõ rệt trên khuôn mặt. Nhưng khi lôi ra tấm ảnh, mặt cô biến sắc, tay cô run rẩy, hai mắt mở tròn. Toàn thân cô bất động. Chính tôi cũng sửng sờ như thể tôi thấy tấm hình lần đầu. Cô đăm đăm nhìn bức hình. đột nhiên đôi mắt cô nhòa đi. Không còn hoài nghi gì nữa, cô đã nhận ra người thân. Những giọt nước mắt đua nhau lăn tròn trên má.
Hoài Nguyên cố cầm nước mắt bằng cách mím môi lại. Nước mắt đang chảy vào tim. Không biết tôi đã để cô yên lặng bao lâu với nỗi đau tôi vừa khơi lại. Tôi nhẹ nhàng hỏi:
- Bố mẹ cháu phải không?
Cô gật nhẹ. Một lúc sau mới nói trong tiếng nghẹn
- Vâng. Thưa chú. Chính bố mẹ cháu. Cháu cũng có một tấm hình như thế trong cuốn album. Mẹ cháu nói bức hình chụp một tháng trước khi bố cháu theo đoàn xe tiếp tế cho chiến trường miền Nam. Không hiểu sao, khi gặp chú lần đầu, cháu nhìn được cái gì đó nơi chú. Cháu thực sự không hiểu có gì bí ẩn đã xui khiến cháu nói chuyện gia đình với chú. Nói cho cháu biết, do đâu chú có chiếc ví và tấm hình của bố cháu?
- Chú không hiểu tại sao mình lại giữ những kỷ vật nầy trong bao nhiêu năm, đi đâu chú cũng mang theo. Bây giờ những kỷ vật nầy thuộc về cháu. Ngày trước chú làm một việc tình cờ, nhưng hôm nay lại giúp ích rất nhiều cho cháu.
Tôi nhận ra một điều kỳ lạ. Tại sao Thương đế đã không để chúng tôi gặp nhau trên quê hương mình mà phải đến một xứ xa lạ? Phải chăng trên mảnh đất xứ người chúng tôi dễ cảm thông thân phận của nhau hơn. Tôi kể cho cô nghe về cuộc tấn công của cộng sản vào thị xã Banmêthuột. Lúc nầy cô đã bình tỉnh trở lại và chăm chú lắng nghe. Tôi không muốn kể về những ngày bố cô đến ở trong nhà tôi, những cuộc đấu tố hay cái chết của bác tôi mà anh ta đã can dự. Tôi nghĩ chưa phải lúc để nói ra.
- Chú còn nhớ địa điểm chôn bố cháu không?
- Chú rời Banmêthuột năm 1971, nên không biết nơi chôn bố cháu có gì thay đổi không. Nhưng chú nhớ rất rõ địa điểm. Đó là một cái hố chôn tập thể chừng năm người, phía sau một cái am trên sườn đồi cụ Đức. Cháu đến Banmêhuột nên tìm hỏi những người đã sống trước năm 1975 về đồi cụ Đức phía sau Tiểu Khu, họ sẽ chỉ cho. Ngôi mộ được dân chúng đắp cao nhưng không ghi tên tuổi người chết. Chú tin cháu sẽ gặp may mắn.
Chúng tôi im lặng một lúc lâu. Công viên đã vắng người. Chiều xuống trãi những vạt nắng cuối cùng như những dải lụa vàng phủ lên cảnh vật và những bóng người đây đó vẫn còn mãi mê chuyện trò.
Trên đường đưa cô về nhà, tôi nói đứa con gái đầu lòng của tôi trạc tuổi cô, mất lúc ba tuổi sau một tai nạn. Hoài Nguyên lắng nghe tôi kể cái chết kỳ lạ của đứa con tôi và tỏ ra thông cảm sâu xa về mất mát của tôi. Bỗng nhiên chúng tôi có một thứ tình cảm mới, cảm thấy gần gủi và dễ dàng nói ra những điều mình nghĩ.
- Cũng như bố cháu, chú cũng là nạn nhân của chiến tranh. Chỉ tiếc là sau khi chiến tranh chấm dứt, đất nước mình thay vì hàn gắn và xây dựng, lại đập đổ và đánh mất đi nhiều thứ đã xây dựng được từ hằng thế hệ trước đây. Kẻ chiến thắng cai trị bằng bạo lực, kẻ bại trận rủ nhau rời khỏi đất nước. Nhân tài cũng ra đi. Trước khi nói đến chuyện làm giàu cho đất nước, phải nói chuyện làm giàu tình dân tộc trước đã. Chính quyền đã không làm điều đó. đó là cái bất hạnh lớn nhất cho đất nước mình.
Chú không tin tương lai đất nước mình sẽ khá hơn bởi những người đang nắm giữ quyền bính trong tay hôm nay. Họ thành công trong việc quản lý con người nhưng họ thất bại trong việc xây dựng, kể cả xây dựng tình dân tộc. Muốn đưa đất nước đi lên phải có những con người có kiến thức và lương tri. Cháu nên có thêm những người bạn Việt Nam để chia sẻ về mặt tinh thần. Chú sẽ giúp được điều nầy. đó là những người bạn trẻ thành công trên đất Mỹ, nhưng họ vẫn mong trở về xây dựng đất nước. Chỉ tiếc rằng họ vẫn chưa thực hiện được hoài bảo của mình.
- Tại sao vậy chú? Bây giờ nhà nước sẵn sàng tiếp đón họ mà.
- Một số người đã về và thất vọng. Họ tưởng rằng, đem thiện chí, tài năng và tiền bạc về là chính quyền sẽ khuyến khích và tạo điều kiện để họ thực hiện hoài bão của mình. Họ không thể tin được rằng, ngay cả những cơ sở từ thiện, những công tác cứu trợ cũng bị những viên chức địa phương làm tiền trắng trợn, nói chi đến đầu tư làm ăn.
- Nhưng mà cháu ngại lắm. Cháu nghe nói những người Việt Nam ở đây có thành kiến với du học sinh- Đó là điều tự nhiên. Nhưng không phải tất cả. Với những người bạn của chú thì không. Ngược lại, chú bảo đảm, họ rất cởi mở và thẳng thắn.
- Thưa chú. Cháu là một đứa con gái mồ côi từ nhỏ. Từ lâu cháu chỉ muốn được học hành, nhưng hoàn cảnh của cháu thật khó khăn. Nếu không có bà dì và đứa em bà con, cháu không bao giờ mơ đến được xứ nầy. Nhưng mà qua đây, mọi cái đều không như cháu nghĩ. Ngôn ngữ, sinh hoạt, phong tục, mọi thứ đều khác với đất nước mình.
- Từ từ cháu sẽ quen. Ai mới qua đây cũng tâm trạng như cháu. Chú không tin cháu thuộc những gia đình nhiều tiền gởi con đi du học, khi qua đây, những du học sinh lại phung phí ăn chơi, không màng đến chuyện học hành. Những người bạn trẻ của chú sẽ giúp cháu. điều cần nhất là phải kiên nhẫn.
- Cháu không ngại điều đó
.- Vậy là cháu thành công được một nửa rồi đó.
Chúng tôi cùng cười. Chiếc xe đã về đến nhà Bảo Trâm. Hoài Nguyên trọ ở đây.
Khi Hoài Nguyên quay vào nhà, tôi nhìn theo dáng cô khuất sau một chiếc xe van. Phải đây là đứa con của người lính cộng sản đã gieo chết chóc cho gia đình tôi gần năm mươi năm về trước? Nhưng hôm nay, khi nhắc lại quá khứ đau thương, tôi không một chút oán hận. Chỉ như một tai nạn của chiến tranh. Như vận nước không may rơi vào một giai đoạn bất hạnh của lịch sử.
Bây giờ tôi lại hoài mong tương lai đất nước sẽ nằm trong tay lớp người như Hoài Nguyên. Có phải là điều khôn ngoan cần phải có khi nhìn về tương lai đất nước bằng cái tình tự dân tộc nhiệm mầu mà người cộng sản không thể có được? Dù sao, Hoàng Thanh đã nằm xuống, đứa con đã đứng lên bằng cái nhìn khác, tấm lòng khác, theo một tiếng gọi khác. Núi xương và sông máu, qua hằng thế hệ trên quê hương tôi, là bài học lịch sử qủa đắt giá hơn bất cứ đất nước nào, hôm nay với kẻ hậu sinh phải được gẫm suy để đưa vận nước thoát khỏi cơn mê lầm thế kỷ. Chiếc xe lịch sử phải chăng đã thản nhiên lăn trên con đường đầy máu và nước mắt, cán nát cả những kẻ thân yêu của mình, bởi vì lịch sử chỉ có một con đường để đi...
***
Khi tôi rời sân khấu, những tiếng vỗ tay nổ dòn từ những sinh viên, giáo sư, thân nhân ngồi chật cả hội trường. Tôi tiến về chiếc bàn tròn các sinh viên Việt Nam đang ngồi. Gần một nửa là du học sinh. Họ đứng lên chúc mừng tôi. Một cô bé trong số du học sinh chiếm được giải nhì thi viết.
Bà giáo sư Wilma Parker cho tôi hay, bà rất xúc động ngay lần đầu đọc bài của tôi, bà nói rằng tôi có quyền hy vọng nơi ban giám khảo. Trước giờ khai mạc, ban giám khảo đã đến chúc mừng và cho phép tôi đọc nguyên bài thay vì tóm lược như các sinh viên đoạt giải khác. Có phải đây là đặc ân dành cho giải nhất toàn trường? Một điều lý thú là tôi đã nhìn thấy các sinh viên Việt Nam đến tham dự khá đông, kể cả một số du học sinh đã không ngại đến hỏi tôi về những nhân vật trong câu chuyện.
Chỉ tiếc một điều. Hoài Nguyên đã theo Bảo Trâm di chuyển về tiểu bang Washington ba năm trước. Phải chi Hoài Nguyên có mặt trong ngày hôm nay để nghe câu chuyện Mảnh Da Vàng, câu chuyện của tôi mà cũng là câu chuyện của cô, đứa con của một người lính bên kia chiến tuyến. Và hơn hết, tôi nghĩ đây cũng là câu chuyện của những người Việt Nam thời ly loạn, để rồi khi hết loạn ly, chỉ còn lại những mảnh da vàng rách nát. Nhưng là những mảnh da vàng để xót thương.
Rồi có một ngày dẫn nhau về nơi chôn nhau cắt rốn, cùng thắp lên những nén nhang tạ tội với tổ tiên và ước nguyện cho những người Việt Nam đã nằm xuống trong cuộc chiến tranh vừa qua, bất luận từ phía nào và nguyên cớ nào, được thanh thản nơi thế giới nào đó, một thế giới không binh đao và oán thù.
Virginia, xứ người hồn tôi
Chu Lynh
Để tưởng nhớ những người thân yêu đã ra đi
No comments:
Post a Comment