Hoàn cảnh dẫn đến tranh chấp HOÀNG SA, TRƯỜNG SA
USS Chung-Hoon (DDG-93)
HOA KỲ ĐIỀU ĐỘNG KHU TRỤC HẠM TỚI TÂY THÁI BÌNH DƯƠNG
GIÚP CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á ĐƯƠNG CỰ VỚI TRUNG CỘNG
Hoa Kỳ vừa điều động khu trục trang bị phi đạn hướng dẫn USS Chung-Hoon tới Tây Thái Bình Dương trong lúc căng thẳng giữa Cộng Sản Tầu và các nước láng giềng vì tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông lên cao.
Khu trục hạm USS Chung-Hoon.
Ảnh: US Navy.
Hải quân Hoa Kỳ cho hay 280 thủy thủ trên tàu dự định sẽ hoạt động hợp tác với các nước đồng minh trong khu vực. BBC cho hay tàu này rời căn cứ ở Hawaii tới Tây Thái Bình Dương hôm 8/6 trong sứ mệnh xác định "quyền tự do hải hành" trong vùng. Tuy nhiên, phía Hoa Kỳ cũng nói nhiệm vụ của tàu còn là để "răn đe", thúc đẩy "hòa bình, an ninh" cũng như đảm bảo sẵn sàng cứu trợ nhân đạo.
Năm ngoái, USS Chung-Hoon từng hợp tác huấn luyện với Lực lượng cảnh vệ bờ biển Philippines tại biển Sulu. Tàu này thường hỗ trợ cho các nỗ lực chống nổi dậy ở miền nam Philippines. Nó cũng từng tham gia các cuộc tập trận cùng lực lượng Hoa Kỳ ở Guam và hải quân Singapore.
Chính quyền Obama gần đây chuyển trọng tâm chiến lược sang Đông Nam Á, sau khi nhận thấy tầm quan trọng ngày càng lớn về quân sự, ngoại giao lẫn thương mại của khu vực này, tạp chí Foreign Policy nhận định. Tàu USS Chung-Hoon được điều động tới Tây Thái Bình Dương đúng thời điểm Cộng Sản Tầu bị tố cáo liên tục có những hành động xâm phạm chủ quyền Việt Nam và Philippines tại Biển Đông.
Hôm qua, Việt Nam cho biết tàu đánh cá Cộng Sản Tầu đã cắt cáp tàu Việt Nam khi đang thăm dò địa chấn trong phạm vi 200 hải lý trên thềm lục địa của Việt Nam. Đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam khẳng định hành động của các tàu cá và tàu ngư chính Trung Quốc là "hoàn toàn có chủ ý, được tính toán và chuẩn bị kỹ lưỡng", nhằm biến yêu sách đường lưỡi bò thành hiện thực và Việt Nam không thể chấp nhận điều này.
Đây là lần thứ hai trong vòng hai tuần qua, tàu Cộng Sản Tầu xâm phạm vùng biển chủ quyền của Việt Nam và phá hoại tàu thăm dò của Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam. Trước đó hôm 26/5, ba tàu hải giám Cộng Sản Tầu đã tấn công tàu thăm dò địa chấn Bình Minh 02 đang làm việc bình thường trong phạm vi thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam.
Philippines gần đây cũng cáo buộc tàu Cộng Sản Tầu xâm phạm chủ quyền của họ ở Biển Đông. Tổng thống Philippines Benigno Aquino hôm qua cho biết sẽ phản đối Cộng Sản Tầu lên Liên Hiệp Quốc.
Tàu USS Chung-Hoon của Hoa Kỳ có trọng tải khoảng 9.200 tấn, được trang bị radar Aegis, cùng nhiều phi đạn chống phi cơ, tàu chiến, tàu ngầm và cả phi đạn Tomahawk. Hồi tháng 3/2009, tàu này từng được điều động tới hộ tống tàu thăm dò Impeccable của Hải quân Hoa Kỳ sau một vụ va chạm với tàu đánh cá Cộng Sản Tầu ở Biển Đông.
Mỹ tính gì ở Biển Ðông?
Ngô Nhân Dụng
Ngô Nhân Dụng
Một vị độc giả Nhật báo Người Việt viết thư nêu ý kiến rằng nước Mỹ sẽ chẳng đời nào để tâm đến những tranh chấp giữa Việt Nam và Cộng Sản Tầu; lý do là vì Mỹ đã “nhường Việt Nam cho Cộng Sản Tầu” từ khi ông Nixon đi Tầu năm 1972 rồi. Vị độc giả nêu thêm một bằng cớ: Năm 1974 quân Cộng Sản Tầu tấn công chiếm quần đảo Hoàng Sa; trong khi Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa bị tàn sát thì Hạm Ðội Thứ Bẩy của Mỹ đứng ngoài không can thiệp mặc dù lúc đó nước Mỹ vẫn là đồng minh. Không những thế, khi tầu Việt Nam bị đánh chìm các sĩ quan đã điện xin chiến hạm Mỹ đến vớt các thủy thủ lênh đênh trên mặt biển, họ hoàn toàn bất động.
Ai cũng phải tức giận trước thái độ làm ngơ vô tình của Hạm Ðội Thứ Bẩy của Mỹ khi không cho tầu đi cứu vớt các chiến sĩ Hải Quân Việt Nam. Không biết họ có lý do kỹ thuật nào để từ chối hay không; nhưng thái độ đó không thể nào tha thứ được.
Nhưng về mặt chính trị thì chúng ta hiểu tại sao chính phủ Mỹ quyết định đứng ngoài không can thiệp vào vụ Hoàng Sa năm 1974. Về mặt ngoại giao cũng như trên mặt chiến lược, nước Mỹ không thấy lý do nào đủ mạnh để can thiệp vào vụ Hoàng Sa.
Lúc đó chính phủ Nixon đã quyết định rút khỏi Việt Nam rồi. Năm 1968, trong khi đang tranh cử tổng thống, ông Richard Nixon đã cho cố vấn Henri Kissinger đến gặp riêng đại sứ Nga tại Washington, yêu cầu chính phủ Nga đừng làm gì ảnh hưởng tới cuộc bầu cử năm đó. Ông Kissinger nói với Ðại Sứ Dobrynin rằng ông Nixon chắc chắn sẽ rút quân Mỹ khỏi Việt Nam. Và ông nhấn mạnh: Sau đó chế độ chính trị ở miền Nam Việt Nam ra sao, Mỹ cũng không quan tâm, “dù đó là một chế độ cộng sản.” Ðại Sứ Anatoliy F. Dobrynin đã nhắc đến những lời Kissinger cam kết như vậy 2 lần trong cuốn hồi ký của ông ta in năm 1995; ông kể đủ chuyện về 24 năm làm đại sứ, qua sáu đời tổng thống Mỹ từ 1962 đến 1986 (ông mới qua đời năm 2010).
Năm 1974, sau khi Kissinger đã ký hiệp định Paris để rút quân, chính phủ Mỹ coi những tranh chấp giữa Việt Nam và Cộng Sản Tầu không dính líu đến họ. Vào năm 1974, chính phủ Mỹ có thể đã nhìn trước thấy trước sau miền Nam sẽ bị cộng sản chiếm. Họ không thể vì bênh vực một quốc gia sắp rơi hoàn toàn vào tay một chính quyền cộng sản mà đi gây thêm rắc rối với Cộng Sản Tầu, một nước mà họ đang ve vãn để cùng hợp tác chống Nga Xô!
Từ thời gian đó cho tới gần đây, nước Mỹ vẫn giữ thái độ đứng ngoài mọi tranh chấp giữa hai nước cộng sản Việt Nam và Cộng Sản Tầu. Vùng Biển Ðông là địa bàn tranh chấp giữa hai nước cộng sản đó, nước Mỹ không dính vào, trừ khi có chuyện nào liên hệ tới quyền lợi của các nước Ðông Nam Á và các nước đồng minh của Mỹ như Ðài Loan, Nhật Bản hoặc Nam Hàn. Ngay cả sau khi chính phủ Mỹ đã mở bang giao với cộng sản Việt Nam, các vị tổng thống Mỹ như Clinton, Bush, đã đến thăm Việt Nam và giúp Việt Nam vào tổ chức Thương Mại Thế Giới, chính phủ Mỹ luôn công khai đứng ngoài trước các tranh chấp giữa Bắc Kinh và Hà Nội.
Nhưng trong tuần qua, có những dấu hiệu cho thấy chính sách của Mỹ đang thay đổi, qua các hành động và lời tuyên bố của ông bộ trưởng quốc phòng Mỹ. Ông Robert Gates đã nhân cuộc họp mặt ở Singapore về các vấn đề an ninh khu vực để gặp riêng bộ trưởng quốc phòng của chính quyền Cộng Sản Việt Nam. Hành động này có thể chỉ được coi là một cử chỉ xã giao bình thường nếu không có những lời tuyên bố của ông Gates, rõ ràng nhắm vào Cộng Sản Tầu.
Ông Gates nói thẳng đến vùng Biển Ðông (thường gọi là Nam Hải của Cộng Sản Tầu). Ông nhấn mạnh rằng Biển Ðông là một vùng đang căng thẳng. Nước Mỹ tỏ ra không phải chỉ quan tâm đến phía Ðông Bắc Á Châu, nơi Bắc Hàn đang gây hấn, mà vẫn ngó về phía Nam. Nhưng ông Gates nói rõ: “Biển Ðông không phải chỉ là mối lo của các nước chung quanh,” mà còn đáng quan tâm đối với “các nước có quyền lợi kinh tế liên can” đến vùng này. Không nói ai cũng hiểu: Nước Mỹ nằm trong các quốc gia có quyền lợi kinh tế trong vùng này. Nước Mỹ phải có mặt trong vùng Biển Ðông để bảo vệ các quyền lợi đó.
Ông Gates nhắc lại chính sách của Mỹ là “ổn định, bảo đảm quyền tự do đi lại và quyền phát triển kinh tế của các nước trong vùng Biển Ðông không bị ngăn cản.” Ðó chỉ là những nguyên tắc chung chung, không đủ để khiến cho Cộng Sản Tầu coi là có thái độ khiêu khích họ. Hai điều ai cũng có thể nói và ai cũng đồng ý: Cần ổn định và tự do sử dụng đường biển nối liền vùng Ðông và Nam Á Châu với Âu Châu và thế giới dầu lửa Á Rập.
Nhưng có một điều mới mẻ: Ðây là lần đầu tiên một vị bộ trưởng quốc phòng Mỹ nhấn mạnh thêm đến “quyền phát triển kinh tế không bị ngăn cản” của các quốc gia trong vùng Biển Ðông. Và ông ta nói trong một hội nghị về an ninh trong vùng.
Tại sao nhắc đến quyền lợi kinh tế? Vì, cũng trong câu chuyện ngày Thứ Bẩy vừa qua, ông Robert Gates nhắc đến chính sách Mỹ là phản đối tất cả mọi hăm dọa đối với các công ty năng lượng dầu khí của Mỹ hay của bất cứ nước nào khác, đang hoạt động trong khu vực này. Ðiều này rõ ràng không thể nào hiểu lầm được: Ông Gates ám chỉ việc Cộng Sản Tầu ngăn cấm các công ty Mỹ dò tìm dầu khí ở trong vùng biển mà Việt Nam coi là thuộc hải phận của mình.
Năm 2007, Bắc Kinh đã làm áp lực đối với công ty British Petrolium Anh Quốc, buộc họ ngưng hợp đồng khai thác dầu khí với Việt Nam. Năm 2008, công ty Mỹ Exxon Mobil cũng phải rút lui không tìm mỏ dầu ở thềm lục địa Việt Nam nữa. Chính quyền Cộng Sản Việt Nam hoàn toàn bó tay và kín miệng trước các hành động áp bức đó. Các công ty dầu khí quốc tế thì phải tự lo quyền lợi kinh tế của chính họ: Nếu không nghe lệnh Bắc Kinh, họ sẽ mất các hợp đồng với Cộng Sản Tầu, là một thị trường nhiều triển vọng tốt hơn gấp bội. Nhưng chính phủ Mỹ không thể làm ngơ, vì họ chịu trách nhiệm với Quốc Hội Mỹ, nơi các công ty dầu lửa không ngừng vận động hành lang. Năm ngoái, nhân viên Bộ Ngoại Giao Mỹ đã bị các đại biểu Quốc Hội chất vấn về hiện tượng Cộng Sản Tầu ngăn cản các công ty Mỹ khi khai thác trong vùng Biển Ðông của Việt Nam.
Bây giờ, chính một vị bộ trưởng quốc phòng Mỹ đã đề cập tới vấn đề này, tại một hội nghị quốc tế về vấn đề an ninh trong vùng Ðông Nam Á. Cho nên, chúng ta có thể thấy một bước chuyển biến mới trong chính sách ngoại giao của chính phủ Mỹ. Họ xác định quyền lợi kinh tế của nước Mỹ trong vùng biển mà trước đây họ coi như các tranh chấp ở đó hoàn toàn là vấn đề của các nước chung quanh, nước Mỹ đứng xa không can thiệp. Ông Robert Gates xác định: Nước Mỹ có những quyền lợi kinh tế trong vùng Biển Ðông. Và người đại diện chính phủ Mỹ nói thẳng điều này với đại diện của chính phủ Bắc Kinh. Thử nhớ lại, năm 1974 chính phủ Nixon bỏ rơi các chiến sĩ Hải Quân Việt Nam cho quân Cộng Sản Tầu tàn sát, 7 tháng trước khi ông Nixon từ chức. Ba mươi sáu năm sau, một chính phủ Mỹ khác xác định họ sẽ bảo vệ quyền lợi của các công ty dầu khí Mỹ trong vùng Biển Ðông, không cho Cộng Sản Tầu ngăn cản. Ðây là một bước rẽ mới. và cũng là một cơ hội mà bất cứ chính quyền Việt Nam nào cũng nên bắt lấy, nếu họ thực sự lo cho quyền lợi của nước Việt Nam chứ không quá hèn nhát chỉ lắng nghe theo những ý kiến từ Bắc Kinh.
Ðể tạo thêm sức nặng cho những lời nói trên đây, ông Robert Gates còn nói thêm rằng chính phủ Mỹ khẳng định lại các cam kết lâu dài của họ tại Châu Á. Hơn nữa, họ tiếp tục gia tăng và mở rộng các liên minh cũng như các quan hệ trong khu vực này. Nhắc lại: gia tăng và mở rộng các liên minh ở Á Châu. Bài nói chuyện của ông Gates còn nhấn mạnh rằng chính sách an ninh của chính phủ Mỹ đang “mở rộng về mặt địa lý,” cứng rắn hơn về lập trường, và bền chắc hơn về chính trị (một câu nói khá mơ hồ cho mọi người tự tìm cách diễn giải).
Những lời tuyên bố của ông bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ không chỉ nhắm riêng vào mối xung đột giữa Cộng Sản Tầu với Việt Nam, mà còn nhắn nhủ chung cho các nước Ðông Nam Á khác. Từ nửa thế kỷ nay, nước Mỹ vẫn đánh lá bài “mối đe dọa của Cộng Sản Tầu” đối với các nước trong vùng này. Ðến nay, lá bài đó vẫn còn có giá trị trong việc khích động các chính phủ và người dân Á Châu. Họ vẫn thấy phải có lá dù che chở của nước Mỹ. Nếu không, các nước từ Nhật Bản, Nam Hàn, đến Indonesia, Phi Luật Tân sẽ phải tốn rất nhiều tiền để vũ trang, có nước sẽ làm bom nguyên tử!
Các nước Ðông và Nam Á đã được hưởng một thời gian kéo dài một thế hệ, từ 1955 đến 1985, khi Cộng Sản Tầu và Việt Cộng bị cầm chân trong cuộc chiến Việt Nam và chiến tranh giữa các nước cộng sản Việt, Hoa và Campuchia. Trong thời gian đó các chế độ cộng sản không thể thúc đẩy mạnh các phong trào nổi loạn ở các nước trong vùng Ðông Nam Á. Chính nhờ 30 năm đó mà các quốc gia, từ Mã Lai, Tân Gia Ba, Phi Luật Tân, vân vân, có thời gian để phát triển kinh tế; nối gót Ðài Loan, Nam Hàn, và Hồng Kông. Một khi kinh tế đã phồn thịnh cho người dân đủ sống thì họ được bình yên vì chủ nghĩa cộng sản hết hấp dẫn.
Thêm một thế hệ nữa đã qua, đến năm 2010 này, ông Robert Gates nhắc lại sự có mặt của nước Mỹ trong vùng Biển Ðông. Trong lúc đó, mối đe dọa của chính sách bành trướng của Cộng Sản Tầu còn lộ liễu hơn, mặc dù đã chuyển từ chính sách gây bạo loạn cách mạng vô sản sang chủ trương liên kết kinh tế trong hòa bình. Nhưng đối với các nước Ðông Nam Á, đây là những lời cam kết mới của chính phủ Mỹ, chứng tỏ họ sẵn sàng giúp các nước vùng Biển Ðông đứng vững trước áp lực của Cộng Sản Tầu. Tất cả mọi người Việt Nam yêu nước phải nhìn thấy đây là một cơ hội phải bắt lấy. Nước Việt Nam không bao giờ nên liên kết với một cường quốc ở xa để khiêu khích hoặc gây hấn với nước láng giềng to lớn phương Bắc. Nhưng Việt Nam phải lợi dụng ngay bất cứ cường quốc nào, khi thấy họ có quyền lợi giống như mình vì phải cùng đối phó với chính sách bành trướng bá quyền của Cộng Sản Tầu.
Ai cũng phải tức giận trước thái độ làm ngơ vô tình của Hạm Ðội Thứ Bẩy của Mỹ khi không cho tầu đi cứu vớt các chiến sĩ Hải Quân Việt Nam. Không biết họ có lý do kỹ thuật nào để từ chối hay không; nhưng thái độ đó không thể nào tha thứ được.
Nhưng về mặt chính trị thì chúng ta hiểu tại sao chính phủ Mỹ quyết định đứng ngoài không can thiệp vào vụ Hoàng Sa năm 1974. Về mặt ngoại giao cũng như trên mặt chiến lược, nước Mỹ không thấy lý do nào đủ mạnh để can thiệp vào vụ Hoàng Sa.
Lúc đó chính phủ Nixon đã quyết định rút khỏi Việt Nam rồi. Năm 1968, trong khi đang tranh cử tổng thống, ông Richard Nixon đã cho cố vấn Henri Kissinger đến gặp riêng đại sứ Nga tại Washington, yêu cầu chính phủ Nga đừng làm gì ảnh hưởng tới cuộc bầu cử năm đó. Ông Kissinger nói với Ðại Sứ Dobrynin rằng ông Nixon chắc chắn sẽ rút quân Mỹ khỏi Việt Nam. Và ông nhấn mạnh: Sau đó chế độ chính trị ở miền Nam Việt Nam ra sao, Mỹ cũng không quan tâm, “dù đó là một chế độ cộng sản.” Ðại Sứ Anatoliy F. Dobrynin đã nhắc đến những lời Kissinger cam kết như vậy 2 lần trong cuốn hồi ký của ông ta in năm 1995; ông kể đủ chuyện về 24 năm làm đại sứ, qua sáu đời tổng thống Mỹ từ 1962 đến 1986 (ông mới qua đời năm 2010).
Năm 1974, sau khi Kissinger đã ký hiệp định Paris để rút quân, chính phủ Mỹ coi những tranh chấp giữa Việt Nam và Cộng Sản Tầu không dính líu đến họ. Vào năm 1974, chính phủ Mỹ có thể đã nhìn trước thấy trước sau miền Nam sẽ bị cộng sản chiếm. Họ không thể vì bênh vực một quốc gia sắp rơi hoàn toàn vào tay một chính quyền cộng sản mà đi gây thêm rắc rối với Cộng Sản Tầu, một nước mà họ đang ve vãn để cùng hợp tác chống Nga Xô!
Từ thời gian đó cho tới gần đây, nước Mỹ vẫn giữ thái độ đứng ngoài mọi tranh chấp giữa hai nước cộng sản Việt Nam và Cộng Sản Tầu. Vùng Biển Ðông là địa bàn tranh chấp giữa hai nước cộng sản đó, nước Mỹ không dính vào, trừ khi có chuyện nào liên hệ tới quyền lợi của các nước Ðông Nam Á và các nước đồng minh của Mỹ như Ðài Loan, Nhật Bản hoặc Nam Hàn. Ngay cả sau khi chính phủ Mỹ đã mở bang giao với cộng sản Việt Nam, các vị tổng thống Mỹ như Clinton, Bush, đã đến thăm Việt Nam và giúp Việt Nam vào tổ chức Thương Mại Thế Giới, chính phủ Mỹ luôn công khai đứng ngoài trước các tranh chấp giữa Bắc Kinh và Hà Nội.
Nhưng trong tuần qua, có những dấu hiệu cho thấy chính sách của Mỹ đang thay đổi, qua các hành động và lời tuyên bố của ông bộ trưởng quốc phòng Mỹ. Ông Robert Gates đã nhân cuộc họp mặt ở Singapore về các vấn đề an ninh khu vực để gặp riêng bộ trưởng quốc phòng của chính quyền Cộng Sản Việt Nam. Hành động này có thể chỉ được coi là một cử chỉ xã giao bình thường nếu không có những lời tuyên bố của ông Gates, rõ ràng nhắm vào Cộng Sản Tầu.
Ông Gates nói thẳng đến vùng Biển Ðông (thường gọi là Nam Hải của Cộng Sản Tầu). Ông nhấn mạnh rằng Biển Ðông là một vùng đang căng thẳng. Nước Mỹ tỏ ra không phải chỉ quan tâm đến phía Ðông Bắc Á Châu, nơi Bắc Hàn đang gây hấn, mà vẫn ngó về phía Nam. Nhưng ông Gates nói rõ: “Biển Ðông không phải chỉ là mối lo của các nước chung quanh,” mà còn đáng quan tâm đối với “các nước có quyền lợi kinh tế liên can” đến vùng này. Không nói ai cũng hiểu: Nước Mỹ nằm trong các quốc gia có quyền lợi kinh tế trong vùng này. Nước Mỹ phải có mặt trong vùng Biển Ðông để bảo vệ các quyền lợi đó.
Ông Gates nhắc lại chính sách của Mỹ là “ổn định, bảo đảm quyền tự do đi lại và quyền phát triển kinh tế của các nước trong vùng Biển Ðông không bị ngăn cản.” Ðó chỉ là những nguyên tắc chung chung, không đủ để khiến cho Cộng Sản Tầu coi là có thái độ khiêu khích họ. Hai điều ai cũng có thể nói và ai cũng đồng ý: Cần ổn định và tự do sử dụng đường biển nối liền vùng Ðông và Nam Á Châu với Âu Châu và thế giới dầu lửa Á Rập.
Nhưng có một điều mới mẻ: Ðây là lần đầu tiên một vị bộ trưởng quốc phòng Mỹ nhấn mạnh thêm đến “quyền phát triển kinh tế không bị ngăn cản” của các quốc gia trong vùng Biển Ðông. Và ông ta nói trong một hội nghị về an ninh trong vùng.
Tại sao nhắc đến quyền lợi kinh tế? Vì, cũng trong câu chuyện ngày Thứ Bẩy vừa qua, ông Robert Gates nhắc đến chính sách Mỹ là phản đối tất cả mọi hăm dọa đối với các công ty năng lượng dầu khí của Mỹ hay của bất cứ nước nào khác, đang hoạt động trong khu vực này. Ðiều này rõ ràng không thể nào hiểu lầm được: Ông Gates ám chỉ việc Cộng Sản Tầu ngăn cấm các công ty Mỹ dò tìm dầu khí ở trong vùng biển mà Việt Nam coi là thuộc hải phận của mình.
Năm 2007, Bắc Kinh đã làm áp lực đối với công ty British Petrolium Anh Quốc, buộc họ ngưng hợp đồng khai thác dầu khí với Việt Nam. Năm 2008, công ty Mỹ Exxon Mobil cũng phải rút lui không tìm mỏ dầu ở thềm lục địa Việt Nam nữa. Chính quyền Cộng Sản Việt Nam hoàn toàn bó tay và kín miệng trước các hành động áp bức đó. Các công ty dầu khí quốc tế thì phải tự lo quyền lợi kinh tế của chính họ: Nếu không nghe lệnh Bắc Kinh, họ sẽ mất các hợp đồng với Cộng Sản Tầu, là một thị trường nhiều triển vọng tốt hơn gấp bội. Nhưng chính phủ Mỹ không thể làm ngơ, vì họ chịu trách nhiệm với Quốc Hội Mỹ, nơi các công ty dầu lửa không ngừng vận động hành lang. Năm ngoái, nhân viên Bộ Ngoại Giao Mỹ đã bị các đại biểu Quốc Hội chất vấn về hiện tượng Cộng Sản Tầu ngăn cản các công ty Mỹ khi khai thác trong vùng Biển Ðông của Việt Nam.
Bây giờ, chính một vị bộ trưởng quốc phòng Mỹ đã đề cập tới vấn đề này, tại một hội nghị quốc tế về vấn đề an ninh trong vùng Ðông Nam Á. Cho nên, chúng ta có thể thấy một bước chuyển biến mới trong chính sách ngoại giao của chính phủ Mỹ. Họ xác định quyền lợi kinh tế của nước Mỹ trong vùng biển mà trước đây họ coi như các tranh chấp ở đó hoàn toàn là vấn đề của các nước chung quanh, nước Mỹ đứng xa không can thiệp. Ông Robert Gates xác định: Nước Mỹ có những quyền lợi kinh tế trong vùng Biển Ðông. Và người đại diện chính phủ Mỹ nói thẳng điều này với đại diện của chính phủ Bắc Kinh. Thử nhớ lại, năm 1974 chính phủ Nixon bỏ rơi các chiến sĩ Hải Quân Việt Nam cho quân Cộng Sản Tầu tàn sát, 7 tháng trước khi ông Nixon từ chức. Ba mươi sáu năm sau, một chính phủ Mỹ khác xác định họ sẽ bảo vệ quyền lợi của các công ty dầu khí Mỹ trong vùng Biển Ðông, không cho Cộng Sản Tầu ngăn cản. Ðây là một bước rẽ mới. và cũng là một cơ hội mà bất cứ chính quyền Việt Nam nào cũng nên bắt lấy, nếu họ thực sự lo cho quyền lợi của nước Việt Nam chứ không quá hèn nhát chỉ lắng nghe theo những ý kiến từ Bắc Kinh.
Ðể tạo thêm sức nặng cho những lời nói trên đây, ông Robert Gates còn nói thêm rằng chính phủ Mỹ khẳng định lại các cam kết lâu dài của họ tại Châu Á. Hơn nữa, họ tiếp tục gia tăng và mở rộng các liên minh cũng như các quan hệ trong khu vực này. Nhắc lại: gia tăng và mở rộng các liên minh ở Á Châu. Bài nói chuyện của ông Gates còn nhấn mạnh rằng chính sách an ninh của chính phủ Mỹ đang “mở rộng về mặt địa lý,” cứng rắn hơn về lập trường, và bền chắc hơn về chính trị (một câu nói khá mơ hồ cho mọi người tự tìm cách diễn giải).
Những lời tuyên bố của ông bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ không chỉ nhắm riêng vào mối xung đột giữa Cộng Sản Tầu với Việt Nam, mà còn nhắn nhủ chung cho các nước Ðông Nam Á khác. Từ nửa thế kỷ nay, nước Mỹ vẫn đánh lá bài “mối đe dọa của Cộng Sản Tầu” đối với các nước trong vùng này. Ðến nay, lá bài đó vẫn còn có giá trị trong việc khích động các chính phủ và người dân Á Châu. Họ vẫn thấy phải có lá dù che chở của nước Mỹ. Nếu không, các nước từ Nhật Bản, Nam Hàn, đến Indonesia, Phi Luật Tân sẽ phải tốn rất nhiều tiền để vũ trang, có nước sẽ làm bom nguyên tử!
Các nước Ðông và Nam Á đã được hưởng một thời gian kéo dài một thế hệ, từ 1955 đến 1985, khi Cộng Sản Tầu và Việt Cộng bị cầm chân trong cuộc chiến Việt Nam và chiến tranh giữa các nước cộng sản Việt, Hoa và Campuchia. Trong thời gian đó các chế độ cộng sản không thể thúc đẩy mạnh các phong trào nổi loạn ở các nước trong vùng Ðông Nam Á. Chính nhờ 30 năm đó mà các quốc gia, từ Mã Lai, Tân Gia Ba, Phi Luật Tân, vân vân, có thời gian để phát triển kinh tế; nối gót Ðài Loan, Nam Hàn, và Hồng Kông. Một khi kinh tế đã phồn thịnh cho người dân đủ sống thì họ được bình yên vì chủ nghĩa cộng sản hết hấp dẫn.
Thêm một thế hệ nữa đã qua, đến năm 2010 này, ông Robert Gates nhắc lại sự có mặt của nước Mỹ trong vùng Biển Ðông. Trong lúc đó, mối đe dọa của chính sách bành trướng của Cộng Sản Tầu còn lộ liễu hơn, mặc dù đã chuyển từ chính sách gây bạo loạn cách mạng vô sản sang chủ trương liên kết kinh tế trong hòa bình. Nhưng đối với các nước Ðông Nam Á, đây là những lời cam kết mới của chính phủ Mỹ, chứng tỏ họ sẵn sàng giúp các nước vùng Biển Ðông đứng vững trước áp lực của Cộng Sản Tầu. Tất cả mọi người Việt Nam yêu nước phải nhìn thấy đây là một cơ hội phải bắt lấy. Nước Việt Nam không bao giờ nên liên kết với một cường quốc ở xa để khiêu khích hoặc gây hấn với nước láng giềng to lớn phương Bắc. Nhưng Việt Nam phải lợi dụng ngay bất cứ cường quốc nào, khi thấy họ có quyền lợi giống như mình vì phải cùng đối phó với chính sách bành trướng bá quyền của Cộng Sản Tầu.
*****
HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA & TRƯỜNG SA - NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP
Hoàn cảnh lịch sử bắt đầu từ năm 1909, Chính quyền tỉnh Quảng Đông, Trung Hoa cho rằng Hoàng Sa của Việt Nam là đất vô chủ, nên đã có hành động khảo sát, chiếm hữu theo cung cách của Phương Tây, đã không gặp bất cứ phản ứng nào của Việt Nam vì Việt Nam bị mất chủ quyền ngoại giao vào tay người Pháp, trong khi Pháp vốn biết trước ý đồ của chính quyền Quảng Đông, song vẫn không can thiệp ngay vì sợ chủ nghĩa dân tộc “Chauvin” bùng dậy ở Trung Hoa, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của Pháp ở Trung Hoa. Tùy theo từng thời kỳ lịch sử từ giai đoạn 1 (1909-1930), giai đọan 2 (1930-1945), giai đoạn 3 (1945-1954), giai đoạn 4 (1954-1975), giai đoạn hiện nay (1975 đến nay), có những hoàn cảnh lịch sử khác nhau, dẫn đến những nguyên nhân tranh chấp khác nhau, tính chất tranh chấp khác nhau, liên tiếp không ngừng cho đến tận ngay nay.
Chính đầu thế kỷ XX Việt Nam bị Pháp thuộc, mất hết chủ quyền, trong khi các thế lực bành trướng mới như Nhật sau chiến thắng Trung Nhật (1894-1895) và chiến thắng Nga Nhật (1904-1905) phát triển Chủ nghĩa Đại Đông Á đã dẫn đến chính quyền Quảng Đông e ngại lại lặp lại sự kiện như người Nhật chiếm giữ đảo Pratas mà Trung Hoa đã đặt tên là Đông Sa, bắt đầu hành động chủ động khảo sát Hoàng Sa vì cho Hoàng Sa là đất vô chủ vào năm 1909 là hoàn cảnh cụ thể cũng là nguyên nhân chủ yếu gây ra sự tranh chấp lẽ ra không đáng có, nếu Việt Nam độc lập, không mất chủ quyền vào tay người Pháp. Sau đó vào năm 1921, Chính quyền Nam Trung Hoa đã quyết định sát nhập trái phép Hoàng Sa tức Tây Sa vào tỉnh Quảng Đông. Chính quyền thực dân Pháp vì nhiều lý do trong đó có quyền lợi của Pháp ở Trung Hoa, đã tiếp tục phản ứng quá chậm chạp, mãi sau vài thập niên, đến năm 1930 mới hết do dự. Song khi ấy, Pháp nhân danh nước bảo hộ Annam hay đất thuộc địa đã thực thi chủ quyền chủ yếu bằng sức mạnh quân sự tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đã không đủ tính thuyết phục chấm dứt sự tranh chấp của Trung Hoa, bởi Pháp cũng chỉ là kẻ đi xâm lược mà thôi.
Sau đó năm 1938, 1939, Nhật đã chiếm Hoàng Sa & Trường Sa làm bàn đạp chiếm Đông Dương trước khi bùng nổ thế chiến thứ 2. Sau khi Nhật bại trận ở thế chiến thứ 2 (1945) phải từ bỏ sự chiếm đóng Hoàng Sa và Trường Sa.
Với những biến động sau Cách Mạng Tháng 8 thành công, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bận lo kháng chiến chống Pháp đô hộ trở lại, Trung Hoa Dân Quốc đã lợi dụng thời cơ tiếp quản nơi Nhật chiếm đóng, vào cuối năm 1946, đã chiếm đóng Hoàng Sa, song đến năm 1950 đã phải rút hết khỏi Hoàng Sa và Trường Sa, trong khi hải quân Pháp vẫn làm chủ Biển Đông, và xây dựng chính quyền bù nhìn, quốc gia Việt Nam do Bảo Đại làm quốc trưởng, thực thi chủ quyền nhân danh Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa. Nguyên nhân tranh chấp vẫn không thay đổi, song về chính trị ở Việt Nam cũng như ở Hoa Lục thay đổi, động cơ tranh chấp có khác, nhất là còn vai trò người Pháp ở thế kẻ đi xâm lược, không có khả năng thuyết phục chấm dứt sự tranh chấp.
Khi Thực dân Pháp rút quân khỏi Việt Nam vào tháng 4/1956 để lại khoảng trống lực lượng bố phòng rồi đến thời chiến tranh chiến tranh lạnh, thế giới chia hai phe: phe Tư bản chủ nghĩa và phe Xã hội chủ nghĩa, Việt Nam bị chia cắt và chiến tranh lạnh cũng như nóng, phải đối đầu, không thể bảo vệ hiệu quả chủ quyền vốn có của mình tại Hoàng Sa và Trường Sa, trong khi thế giới có nhiều biến động, khiến các nước Hoa Lục, Đài Loan, Philippines trong bối cảnh chiến tranh lạnh ấy đã vội vã chiếm cứ một số đảo tại Hoàng Sa và Trường Sa, tranh chấp với Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam dưới vĩ tuyến 17, được Mỹ bảo trợ. Khi Mỹ ký Thông cáo chung Thượng Hải với Hoa Lục năm 1972 và ký Hiệp Định Paris năm 1973, rút quân ra khỏi Việt Nam, không can thiệp để Hoa Lục chiếm toàn thể Hoàng Sa vào tháng 1 năm 1974. Nguyên nhân tranh chấp đã thay đổi về chất, sự đối đầu trong chiến tranh lạnh, và nhất là trong chiến tranh nóng hai chính quyền Nam Bắc có những đồng minh, đồng chí anh em ủng hộ lẫn nhau trong tranh chấp mang tính quốc tế này.
Sau năm 1975, Việt Nam đã thống nhất, thế lực chính trị quốc tế có nhiều biến động ảnh hưởng đến Việt Nam trong đó có việc tranh chấp về Hoàng Sa và Trường Sa vẫn tiếp tục, không những vì vị trí chiến lược vốn có tầm quan trọng lớn lao cũng như tài nguyên nhất là trữ lượng dầu khí tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được cho là có khả năng cao cùng tiềm năng kinh tế cũng là yếu tố dẫn đến những tranh chấp khác nhau không ngừng tại quần đảo Hoàng Sa cũng như Trường Sa mà từ lâu người Việt cũng như Phương Tây vẫn cho là một dải san hô dài hàng vạn dặm.
Từ những hoàn cảnh lịch sử từng thời kỳ trên đã dẫn đến những nguyên nhân, nguyên nhân xa hay nguyên nhân gần; nguyên nhân trực tiếp hay nguyên nhân gián tiếp; nguyên nhân chủ quan, hay nguyên nhân khách quan, phần nào đã nói ở trên, dẫn đến tranh chấp từng thời kỳ.
Sự thực lịch sử ra sao và giải pháp?
Nguyên nhân chủ yếu là Việt Nam mất chủ quyền vào tay người Pháp để xảy ra sự tranh chấp rất đáng tiếc và rồi chiến tranh lạnh, chiến tranh nóng, các thế lực quốc tế ảnh hưởng đến sự tranh chấp triền miên.
Bây giờ Việt Nam đã được độc lập, thống nhất và làm bạn với tất cả các nước kể cả Hoa Lục, Mỹ, Nga… Các nguyên nhân tranh chấp ngoài kinh tế dầu mỏ không còn nữa, thì cái gì của César phải trả lại cho César. Đã đến lúc các sử gia, các nhà nghiên cứu các nước phải nghiêm túc nhìn vào sự thực lịch sử.
Các tư liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam đã xuất hiện liên tục qua các đời: từ đầu thời Chúa Nguyễn (tức đầu thế kỷ XVII), sang thời Tây Sơn rồi tới triều Nguyễn (từ vua Gia Long), Việt Nam có khoảng gần 30 tư liệu các loại, chủ yếu là tài liệu công trong đó có đặc biệt cả châu bản, hội điển chép lệ hàng năm những hành động của nhà nước chiếm hữu, thực thi chủ quyền như vẽ bản đồ, cắm mốc, dựng bia, xây miếu thờ (Hoàng Sa tự), trồng cây, đào giếng… của thủy quân triều Nguyễn chứ không còn ít ỏi như thư của Toàn Quyền Pasquier gửi cho Bộ Trưởng Bộ Thuộc Địa ngày 18-10-1930, mà người Pháp lúc ấy cũng đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam hết sức rõ ràng.
- Về những tư liệu của Hoa Lục minh chứng chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, người ta thấy:
+ Hải Ngoại Ký Sự của Thích Đại Sán (người Cộng Sản Tầu) năm 1696. Trong quyển 3 của Hải Ngoại Ký Sự đã nói đến Vạn Lý Trường Sa khẳng định Chúa Nguyễn đã sai thuyền ra khai thác các sản vật từ các tàu đắm trên quần đảo Vạn Lý Trường Sa.
+ Các bản đồ cổ Hoa Lục do chính người Hoa Lục vẽ từ năm 1909 trở về trước đều minh chứng Tây Sa và Nam Sa không thuộc về Hoa Lục.
Khảo sát tất cả bản đồ cổ của Hoa Lục từ năm 1909 trở về trước, người ta thấy tất cả bản đồ cổ nước Hoa Lục do người Hoa Lục vẽ không có bản đồ nào có ghi các quần đảo Tây Sa, Nam Sa. Tất cả bản đồ cổ ấy đều xác định đảo Hải Nam là cực nam của biên giới phía nam của Hoa Lục.
Sau khi Hoa Lục dùng vũ lực chiếm đóng Hoàng Sa tháng 1-1974, nhiều đoàn khảo cổ Hoa Lục đến các đảo thuộc quần đảo này và gọi là “phát hiện” nhiều cổ vật như tiền cổ, đồ sứ, đồ đá chạm trổ trên các hòn đảo này, song đều không có giá trị gì để minh xác chủ quyền Hoa Lục, trái lại họ lại phát hiện ở mặt bắc ngôi miếu “Hoàng Sa Tự” ở đảo Vĩnh Hưng, tức đảo Phú Lâm (Ile Boisée), lại là bằng chứng hiển nhiên vết tích của việc xác lập chủ quyền của Việt Nam.
- Về những tư liệu Phương Tây cũng xác nhận chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng có rất nhiều như: Nhật Ký trên tàu Amphitrite (năm 1701) xác nhận Paracels là một quần đảo thuộc về nước An Nam, “Le Mémoire sur la Cochinchine” của Jean Baptiste Chaigneau (1769 - 1825) viết vào những năm cuối đời Gia Long (hoàn tất năm 1820) đã khẳng định năm 1816 vua Gia Long đã xác lập chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Paracels, “Univers, histoire et description de tous les peuples, de leurs religions, moeurs et coutumes” của giám mục Taberd xuất bản năm 1833 cho rằng hoàng đế Gia Long chính thức khẳng định chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa năm 1816. Đặc biệt An Nam Đại Quốc Họa Đồ của giám mục Taberd xuất bản năm 1838, phụ bản của cuốn từ điển La tinh- Annam, ghi rõ « Paracels seu Cát Vàng » với tọa độ rõ ràng như hiện nay chứ không phải như Hoa Lục cho là ven bờ biển. (« Seu » tiếng Latinh có nghĩa « hay là », Cát Vàng: chữ Nôm, Hoàng Sa: chữ Hán). Cũng như “The Journal of the Geographycal Society of London” (năm 1849) GutzLaff cũng ghi rõ tọa độ và ghi nhận chính quyền An Nam lập ra những trưng thuyền và một trại quân nhỏ để thu thuế ở Paracels...
Sự thực chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa đã rõ ràng như trên.
Vì thế một chính quyền nào cũng như bất cứ người Việt Nam nào dù khác nhau chính kiến đều coi trọng việc đòi lại Hoàng Sa về với Việt Nam và bảo toàn toàn vẹn Trường Sa. Lịch sử cho biết dù có hàng ngàn năm bị lệ thuộc rồi cũng có ngày với sự kiên cường, bất khuất, sẽ có ngày, khi có thời cơ, sẽ đấu tranh thành công.
Đối với các nước ASEAN trên cơ sở Công ước 1982 về luật biển sẽ tương nhượng trong tinh thần hợp tác giữa các thành viên trong khối càng ngày càng chặt chẽ, đôi bên đều có lợi.
Việt Nam và Hoa Lục núi liền núi, sông liền sông, đã có những bài học lịch sử quí giá. Việt Nam với truyền thống hàng ngàn năm luôn kiên quyết bảo vệ quyền độc lập tự chủ của mình, song luôn luôn tôn trọng nước đàn anh Hoa Lục, luôn theo truyền thống làm “phên dậu của Hoa Lục”, không bao giờ làm hại đến quyền lợi Hoa Lục.
Bất cứ giải pháp nào dựa vào sức mạnh như người Nhật đánh chiếm bằng vũ lực Hoàng Sa, Trường Sa năm 1938, 1939 hoặc thực dân Pháp suốt thập niên 20 đến thập niên 50 thế kỷ XX dựa vào ưu thế quân sự của mình cũng như Hoa Lục dùng võ lực năm 1974 chỉ mang tính nhất thời. Có đế quốc nào mạnh như đế quốc Lã Mã thời Cổ đại hay đế quốc Mông Cổ thời Trung đại hay đế quốc Anh, Pháp thời cận đại, rồi có ngày cũng suy yếu, phải bỏ những lãnh thổ chiếm giữ bằng võ lực.
Bất cứ giải pháp nào muốn vững bền phải dựa trên sự thực lịch sử nhà nước Việt Nam trực tiếp hay được nhân danh đã chiếm hữu thật sự trước tiên, chưa có ai tranh chấp và phải dựa vào trật tự thế giới hiện hành khi có Hiến chương Liên Hiệp Quốc năm 1945 và những Nghị quyết của Liên Hiệp Quốc sau đó và Công ước quốc tế về luật biển năm 1982.
Mọi người kể cả người Hoa Lục phải thấy rõ sự thật lịch sử trên!
Khi nội lực Việt Nam chưa đủ mạnh thì dứt khoát không ký kết bất cứ một hiệp định nào gây sự thiệt thòi cho Việt Nam.
Việc cần làm ngay là làm rõ, quảng bá lịch sử nhà nước Việt Nam đã từ lâu chiếm hữu thật sự Hoàng Sa & Trưởng Sa và xây dựng nội lực Việt Nam vững mạnh, đoàn kết hùng cường.
VĂN KHỐ THUYỀN NHÂN
Web: www.vktnvn.com
No comments:
Post a Comment