Wednesday, October 12, 2011

Tướng Lam Sơn
Tay chơi bi kịch trong quân đội Sài Gòn trước năm 1975
(Phunutoday) - Những ai từng sống ở miền Nam trước năm 1975, nhất là những người lớn tuổi, hầu hết đều nghe danh, biết tiếng Chuẩn tướng Lam Sơn Phan Đình Thứ. Đeo lon tướng, từng làm Chỉ huy Trưởng Trường Sĩ quan Thủ Đức chuyên đào tạo nhân lực cho quân đội VNCH nhưng ông ta lại có cách hành xử như một tên giang hồ lỗ mãng.

Nóng nảy, nặng tính chất anh hùng cá nhân, viên chuẩn tướng này từng danh nổi như phao vì không hề biết sợ ai, kể cả thượng cấp hay cố vấn Mỹ.

Ông ta cũng là một sĩ quan cao cấp hiếm hoi của chế độ cũ không gây bè kết đảng, không phe phái để làm chỗ dựa tiến thân. Từng được nhiều sĩ quan trẻ khâm phục, tung hô, nhưng vì tính khí ngang tàng, kiêu bạc, về cuối đời viên tướng này lại tự rước vào thân nhiều oan nghiệt.

Một đời ngang tàng
Không ít người lầm tưởng, Lam Sơn là người gốc Huế. Lắm kẻ còn muốn chứng tỏ mình hiểu rộng, biết nhiều đã quả quyết ông được sinh ra ở Cam Lộ ,Quảng Trị. Thực tế, Lam Sơn tên thật là Phan Đình Thứ sinh ngày 22/4/1916 tại Hà Tĩnh và lớn lên tại Huế. Vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông vào đời rất sớm, phải vừa tự học, vừa đi làm.

Năm 1941, tròn 25 tuổi, do cơm áo thúc bách, không có con đường lựa chọn nào khác hơn, ông đã tình nguyện gia nhập vào quân đội Liên Hiệp Pháp. Một năm sau (1942), nhu cầu chiến tranh trong Thế Chiến thứ 2 leo thang, người Pháp đưa ông sang Bắc Phi, theo học một khóa sĩ quan cấp tốc. Năm 1943, Lam Sơn ra trường với cấp hàm thiếu úy. Vào thời điểm này, mặt trận trên 3 châu lục Âu, Á, Phi giữa quân Đồng Minh và phe Trục đang diễn ra vô cùng khốc liệt, ông được điều động vào Liên Quân Anh - Pháp trực tiếp tham chiến tại hai chiến trường Tunisie và Algerie.

Với nét mặt khắc khổ và làn da ngăm đen, nếu không biết rõ, người bản xứ khó có thể nghĩ ra ông là một người Việt Nam, trong vai trò một sĩ quan quân đội. Tuy nhiên với tánh khí ngang tàng, gan dạ lại giỏi võ nghệ và tửu lượng khá cao, ông được nhìn nhận như một tay chơi nên dễ dàng chinh phục những người lính dưới quyền, cũng là con dân của những đất nước thuộc địa của hai mẫu quốc Anh, Pháp.


Ông có nhiều kỷ niệm sôi nổi của thời trai trẻ ở hai xứ sở này. Có lần chính miệng ông kể trong men rượu đã ngà say tại quán Cả Cần trên đường Cách Mạng (nay là đường Nguyễn Văn Trỗi). Lúc bấy giờ ông đóng quân tại Algérie.

Một hôm từ quán rượu trở về khi trời đã khuya. Một mình trên đường vắng, bỗng dưng sau lưng ông có tiếng chân của nhiều người đuổi theo, và một giọng hô vang :”Haut les mains!” (Giơ tay lên). Lam Sơn nhận ra tiếng tây của người này thuộc loại giả cầy, phát âm đặc sệt chất giọng Việt Nam. Cho dù vào thời điểm đó, tại Algerie cướp bóc xảy ra như rươi, nhưng ông vẫn tỉnh bơ quay lại nói như quát :”Main, main cái mả mẹ chúng mày.” Quả nhiên nhóm người này ôm chầm lấy ông mừng rỡ: ”Đồng hương, đồng hương chúng mày ơi!”.

Té ra đó là một nhóm thanh niên người Việt, bị người Pháp mộ phu đưa sang Tân Đảo làm đồn điền những năm đầu thế kỷ 20. Rồi sau đó bị đưa vào lính để đi đánh nhau ở Bắc Phi. Do đó, khi biết Lam Sơn là đồng bào của mình, nhóm người trên đã dốc hết túi, kéo ông vào một quán rượu uống cho tới sáng.

Nghe kể tới đây, một người trong bàn hỏi Lam Sơn : “Anh chửi họ như thế lỡ họ nổi nóng tấn công anh, một mình anh làm sao địch lại?” Lam Sơn trả lời : “Nếu chúng nó là thằng Tây, thằng Anh hay Algerie thì làm sao nó nghe được tiếng Việt mà nổi nóng. Còn như chúng nó là thằng Việt Nam thì chắc chắn là mừng đến rơi nước mắt khi nửa đêm gặp được đồng hương rất hiếm hoi ở cái nơi chết tiệt này.”

Tính cách của Lam Sơn là thế. Năm 1945, ông lên trung úy và được gởi sang Ấn Độ theo học một khóa biệt kích và tình báo ở New Delhi. Mãn khóa học này, ông được giao nhiệm vụ chỉ huy một toán biệt kích đa quốc gia, nhảy xuống Cánh Đồng Chum thuộc Vương quốc Lào để giải giới quân đội Nhật Hoàng.

Lam Sơn nói: “Thằng Anh tại Miến Điện, thằng Nhật ở Đông Dương, hay thằng Pháp tại Điện Biên Phủ, khi còn thắng thế thì oai phong lắm. Nhưng khi đã thua trận thì thằng nào cũng như thằng nấy, đa số cũng chỉ là những con gà nuốt giây thun mà thôi!” Tại Lào, ông được giữ chức vụ Quân trấn Trưởng thị xã Trấn Ninh .

Từ đó, Lam Sơn quen biết với một số sĩ quan người Việt đồng cấp hàm trung úy với ông như: Trần Thiệm Khiêm, Cao Văn Viên, Nguyễn Khánh…Cả ba nhân vật này về sau đều leo lên hàm đại tướng của quân lực VNCH khi Lam Sơn vẫn đì đẹt ở cấp đại tá.

Năm 1951, khi Quân đội Quốc gia Việt Nam (tiền thân của Quân lực Việt Nam cộng hòa sau này) ra đời. Lam Sơn được chuyển sang với cấp bậc đại úy. Năm 1954, ông được thăng lên thiếu tá và được cử đi học khóa Trung đoàn Trưởng cùng với các đồng môn khác là Nguyễn Văn Thiệu (sau này trở thành Tổng thống) , Nguyễn Chánh Thi (Trung tướng). Năm 1956, Lam Sơn mang hàm đại tá, làm Tư lệnh Sư đoàn Khinh chiến 16 và dậm chân ở cấp bậc đó đúng 16 năm với không biết bao nhiêu thăng trầm, vinh ít nhục nhiều.

Khi bị buộc phải ra khỏi quân đội với cấp hàm chuẩn tướng quá muộn màng (1972), có lần diễn viên điện ảnh Huy Cường (rất nổi tiếng trước 1975) là bạn nhậu thường trực của Lam Sơn, hỏi : “Sao anh mang đại tá lâu thế”? Ông trả lời: “Bọn Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Khánh, Cao Văn Viên, Đặng Văn Quang…biết tao khinh tụi nó nên ngán tao lắm, dễ gì lên tướng cho được. Hơn nữa, tao lại hai lần động vào mặt hai thằng Mỹ nên người Mỹ cũng dè chừng.”

Quả đúng như vậy. Năm 1958, Đại tá Lam Sơn đang theo học khóa Tham mưu cao cấp tại Fort Leawoth, Hoa Kỳ. Một sĩ quan huấn luyện viên người Mỹ nhìn thấy bảng tên ông đeo trên túi áo với hai chữ LamSon viết sát vào nhau. Anh ta tưởng thằng cha da vàng mũi tẹt này lấy tên Mỹ để nịnh hót quan thầy, bèn hỏi một cách xấc mé, đầy coi thường: “Ai chẳng biết mày là người Việt Nam, tại sao phải lấy tên Mỹ như vậy mà không thấy xấu hổ hay sao?” Lập tức, máu Lương Sơn Bạc nổi dậy, một cú đấm hết đà được Lam Sơn tung vào giữa mặt tên huấn luyện viên người Mỹ, kèm theo tiếng chửi thề và một một câu nói đầy phẩn nộ: “Thằng nhãi, tao đã từng chiến đấu khắp chiến trường Á, Phi, chứ không ru rú trong một xó xỉnh như mày. Tên Việt Nam của tao như thế nào thì tao viết như vậy, chứ không cần đặt tên Tây, tên Mỹ gì hết.”

Kết quả, Lam Sơn bị gọi lên văn phòng làm việc và phải xách hành lý rời khỏi đất Mỹ trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Trở về Việt Nam, cho dù lúc bấy giờ ông Ngô Đình Diệm không ghét Lam Sơn, nhưng nghĩ rằng Lam Sơn thân Pháp và sợ mất lòng người Mỹ nên không dám cất nhắc.

Cái vết “không ưa Mỹ” và tính khí ngang tàng tiếp tục gây ảnh hưởng xấu cho ông đối với các chế độ chuyển tiếp tại miền Nam sau ngày triều đại Ngô Đình Diệm sụp đổ. Năm 1962, khi làm Chỉ huy Trưởng Trường Bộ binh Thủ Đức, ông càng nổi tiếng vì đánh Cố vấn Trưởng người Mỹ.

Trong một buổi duyệt binh thường lệ diễn ra vào mỗi sáng thứ hai hàng tuần, viên Đại tá cố vấn Mỹ cùng với Đại tá Lam Sơn đi ngang qua toán hầu kỳ. Bất chợt, viên đại tá cố vấn dừng lại, đưa ngón tay út chọc vào đầu nòng súng khẩu Garant M1 của một học viên sĩ quan để kiễm tra vũ khí. Ngón tay của ông ta dính đầy dầu chùi súng.


Cho rằng, người học viên sĩ quan này không lau chùi vũ khí theo đúng quy định, ông đưa ngón tay út dính dầu quệt vào mặt anh ta. Đứng bên cạnh, Lam Sơn không nhịn nổi , ông cho viên cố vấn trưởng một cái tát nảy lửa và lời cảnh cáo: “Tôi tặng ông cái tát này để ông nhớ đời. Đừng bao giờ hành động như thế với bất cứ người lính nào. Nếu họ có lỗi, ông có thể phạt họ theo quân kỷ. Nghe chưa?”

Trong suốt cuộc đời binh nghiệp, Lam Sơn chỉ có ba lần được làm trưởng, nhưng toàn là những chức vụ hữu danh vô thực. Đó là năm 1960, ông làm Chỉ huy Trưởng Binh chủng Biệt động quân, nhưng trong tay không có quân vì tất cả các đơn vị đều thuộc quyền điều động của tư lệnh các quân đoàn và khu chiến thuật. Năm 1962, Lam Sơn làm Chỉ huy Trưởng Trường Bộ binh Thủ Đức, quyền lực chỉ thu hẹp trong phạm vi một quân trường.

Và năm 1964 được làm Tư lệnh lực lượng Đặc biệt, thực chất chỉ có Bộ Tư lệnh khung, một Tiểu đoàn 91 Biệt Cách, và mấy toán Delta thường xuyên hành quân xa, thêm Trung tâm Huấn luyện Đồng Bà Thìn ở Cam Ranh. Còn lại, các trại biên phòng đều do lực lượng Đặc biệt Hoa Kỳ thành lập, tuyển dụng và trả lương, cũng như trực tiếp chỉ huy các đại đội Dân sự chiến đấu trú phòng.

Suốt đời, Lam Sơn toàn giữ chức phó cho lớp đàn em của mình, theo kiểu ngồi chơi xơi nước “cho có tụ”, kéo dài đến năm 1973, ngày ông giã từ quân đội trong ô nhục. Lam Sơn đã lần lượt trải qua một loạt chức danh có chữ “Phó”: Năm 1967, Phó Tổng Giám đốc Cảnh Sát quốc gia. Năm 1968, Tổng cục Phó Chiến tranh chính trị.

Năm 1969-1970, Tư lệnh Phó Biệt Khu thủ đô, kiêm Phó Tổng Trấn Sài Gòn Gia Định. Năm 1972, Tư lệnh Phó Quân đoàn 3 và cũng trong năm 1972 ông mới được lên chuẩn tướng làm Tư lệnh Phó Quân đoàn 2 cho đến năm 1973 thì bị loại. Đó là bởi Dương Văn Minh cầm đầu phe quân đội, lật đổ chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm vào ngày 1/11/1963 để lên ngôi vua. Nhưng chỉ được một thời gian ngắn, vẻn vẹn 3 tháng.

Đến ngày 30/1/1964, Trung tướng râu dê Nguyễn Khánh, đang giữ chức vụ Tư lệnh Quân đoàn 2 ở Cao nguyên, bay về Sài Gòn, kết hợp với đảng Đại Việt, cánh thân Mỹ làm chỉnh lý, bắt giữ gần hết tay chân thân tín của Dương Văn Minh.

Với lý do: phe Dương Văn Minh thân Pháp, đang cố đưa miền Nam đi vào trung lập theo kế hoạch của Tổng thống Pháp De Gaulle. Thật ra, đây cũng là một cuộc đảo chính không có tiếng súng và từ giây phút đó, mọi quyền hành đều nằm trong tay Nguyễn Khánh. Ông ta chế ra chức danh Ủy ban Lãnh đạo quốc gia, tự phong mình làm Chủ tịch (Quốc trưởng) và Ủy ban Hành pháp Trung ương do tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch (Thủ tướng).

Để loại bỏ bớt số tướng lĩnh già không theo mình, Nguyễn Khánh lại chế ra cấp hàm chuẩn cướng, phong cho hàng loạt đại tá, trong đó có Lam Sơn, nhằm lôi kéo và thu phục họ. Trước khi ký quyết định này, Nguyễn Khánh cho người đến thăm dò từng đối tượng để tìm hiểu lòng dạ từng người.

Khi được hỏi ý kiến, Lam Sơn đã huỵch toẹt: “Từ trước đến nay, đại tá lên thẳng thiếu tướng chứ quân đội làm gì có cái lon chuẩn tướng. Hơn nữa, cái quyết định thăng cấp này lại do Nguyễn Khánh ký thì chẳng có gì vinh dự.”

Thế là trong danh sách những người lên chuẩn tướng chẳng thấy có tên Lam Sơn - Phan Đình Thứ. Tháng 2/1965, Nguyễn Khánh bị hạ bệ phải chấp nhận đi làm đại sứ lưu động, một hình thức bị trục xuất ra khỏi Việt Nam. Nhưng Đại tá Lam Sơn vẫn cứ là đại tá bởi đàn em tín cẩn của Nguyễn Khánh là Nguyễn Cao Kỳ còn đó, và đang làm chủ vũ đài chính trị Miền Nam.

Dưới triều đại Nguyễn Văn Thiệu, trong mắt ông ta, Lam Sơn là con người nặng chất anh hùng cá nhân một cách vô thưởng, vô phạt. Nhưng cái tính ngang tàng đó cũng làm cho Thiệu và Cố vấn An ninh phủ Tổng thống Đặng Văn Quang ngán, nên những tháng năm còn lại trong quân đội, Lam Sơn chỉ được giữ những chức vụ trời ơi đất hỡi.

Vì thế mà ông là một vị tướng nghèo, suốt đời mang hai cái tật lớn là nát rượu và ham gái. Chính hai cái tật này đã dẫn dắt ông vào con đường oan nghiệt, phần nào đã làm tổn thương đến cuộc đời ngang tàng của ông với những huyền thoại từng được nhiều người quý mến.

Cuối đời oan nghiệt

Cuối cùng, năm 1972, Lam Sơn - Phan Đình Thứ cũng được Nguyễn Văn Thiệu thăng chuẩn tướng một cách muộn màng, sau 16 năm mang hàm đại tá. Oái oăm thay, ông lại bị điều lên làm Tư lệnh Phó Quân đoàn 2, dưới quyền của Quế Tướng Công – Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, một kẻ thuộc hàng đàn em xa lắc xa lơ của ông.

Bởi vì, năm 1956, khi Lam Sơn đã mang hàm đại tá thì Nguyễn Văn Toàn chỉ mới là một anh trung úy. Rất nhiều sĩ quan cao cấp làm việc tại Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 thời đó xác nhận, dù là “sếp”, nhưng Nguyễn Văn Toàn rất ngán Lam Sơn, ít khi dám ngồi chung với nhau, nhất là trong tiệc rượu, ngoại trừ công việc và những lúc họp hành. Toàn ngán bị Lam Sơn nổi chứng bất tử, chửi thẳng vào mặt không biết lúc nào.

Lam Sơn là kỷ lục gia duy nhất của Quân lực Việt Nam cộng hòa khi từng nhận các huy chương: Bắc Đẩu Bội Tinh của Pháp, Chiến Dịch Bội Tinh Pháp giành cho các sĩ quan tham dự thế chiến thứ hai, huy chương Bảo Vệ Nước Pháp của Tổng thống De Gaulle. Huy chương Bạch Tượng do Quốc Vương Lào gắn và huy chương Silver Star do tướng Mỹ Westmoreland gắn. Đó là chưa kể đến một đống huy chương Việt Nam mà mỗi lần nhắc đến, Lam Sơn thường nói : “Mỗi tấm huy chương đều có mặt trái của nó”.

Vào năm 1973, khi làm Tư lệnh Phó Quân đoàn 2, Lam Sơn được cấp một tư dinh khá tiện nghi ở Pleiku. Đây là nơi ông ta thường xuyên tổ chức những cuộc nhậu quên trời, quên đất với một số bằng hữu đủ mọi thành phần trong xã hội, nhưng phải là tay có tửu lượng cao và biết hát hò, ngâm vịnh. Tuy là dân võ biền, nhưng Lam Sơn lại rất thích thi phú và ca hát. Ông hát không hay, nhưng cũng không đến nỗi tệ và rất thích hát. Để trông coi tư dinh này, Lam Sơn giao hẳn cho vợ chồng viên quản gia là một người thượng sĩ trung thành, từng theo ông trên nhiều bước thăng trầm.

Không có ai mô tả nhan sắc người vợ của viên thượng sĩ quản gia này như thế nào, dư luận chỉ xôn xao rằng những lúc viên quản gia vắng nhà, chuẩn tướng Lam Sơn đã nhiều lần ăn ở với vợ của ông ta và đã có lần bị đệ tử bắt quả tang. Thế nhưng, mọi chuyện đều được đôi bên dàn xếp ổn thỏa, tưởng như đôi gian phu, dâm phụ đó sẽ chấm dứt mọi quan hệ bất chính.

Dĩ nhiên, người quản gia trung thành kia phải cắn răng chấp nhận khổ đau trong im lặng, không chỉ vì muốn giữ trọn ân tình mà còn giữ trọn thân phận của kẻ thấp cổ, bé miệng. Vậy mà đến khi biển êm, sóng lặng, men rượu đã khiến cho Lam Sơn không làm chủ được mình và ông đã tái phạm.

Lần này, viên quản gia không còn nhẫn nhục được nữa, ông xách súng vào gặp Lam Sơn và bắt đầu to tiếng, nhưng vẫn chưa dám xiết cò. Trước tình thế đó, Lam Sơn đã nhanh tay hơn, ông vội rút khẩu colt 45 mang sẵn trong người, nhả đạn vào ngực viên quản gia. Gã đệ tử trung thành, khốn khổ của một “tướng quân” nổi tiếng “giang hồ”, nhưng cuối cùng đã ngã xuống sàn nhà trên vũng máu lai láng.

Ngay sau đó, Lam Sơn không bị bắt, nhưng được mời đến Quân cảnh tư pháp để lấy lời khai rồi bị câu lưu về tội giết người. Để giữ danh dự cho quân đội, trong biên bản của Quân cảnh tư pháp, không hề có dòng nào đề cập đến mối quan hệ tội lỗi giữa Lam Sơn với vợ viên quản gia. Người ta chỉ thấy biên bản này mô tả người quản gia vô kỷ luật, rượu chè be bét, bị ma men dẫn đường, đã mang vũ khí, đột nhập vào phòng riêng của Lam Sơn, toan chơi nổi, lấy tiếng, buộc lòng Lam Sơn phải nổ súng để tự vệ một cách vô cùng chính đáng.

Ra khỏi quân đội trong nỗi ê chề, Lam Sơn xuống cấp nghiêm trọng. Ông trang phục lôi thôi, thường là chiếc quần tây nhăn nhó, chiếc áo ca rô ngắn tay ít khi được bỏ trong quần lê đôi dép da lang thang khắp các quán rượu.

Ông cũng không có tiền nhưng khi biết ông là cựu Chuẩn tướng Lam Sơn, phần lớn chủ quán đều cho uống “chùa”. Rất nhiều sĩ quan thuộc nhiều binh chủng, nhất là các binh chủng rằn ri, đi phép về Sài Gòn, vì mến mộ một thời ngang dọc của đàn anh, nên nghe ông đang ngồi ở quán rượu nào là họ tìm tới đó để được mời “đại ca” một chầu túy lúy càn khôn. 

Thời điểm này, Lam Sơn có hai người bạn chí cốt, cũng là những tay nát rượu, thường xuyên xuất hiện bên cạnh ông để ăn theo những chầu nhậu hoành tráng. Cho dù bản thân ông luôn bị viêm túi, nhưng cái món rượu chè thì luôn được thập phương cống hỷ dồi dào.

Người thứ nhất là Hoàng Tùng, cựu Đại úy Biệt động quân bị mù cả hai mắt, nhưng luôn mặc đồ rằn ri, mang giày bốt và đeo súng lục. Ông này gốc gác Quảng Trị, có giọng hát khá hay .

Trước khi hát, thường có đôi lời phi lộ, kể lể về thân phận thương phế binh, bị vợ con ruồng bỏ rất bi thảm của mình đã khiến nhiều em “sến” rơi lệ , xót thương. Người thứ hai là diễn viên điện ảnh Huy Cường, anh ta là một trong số ít nam tài tử rất nổi tiếng trước 1975. Phải tội dính vào ma túy nên mượn rượu để cai, riết rồi thành nghiện rượu.

Lúc đầu, không ít quán rượu, lấy làm tự hào và vui mừng khi được đón tiếp bộ ba đặc biệt này. Hơn nữa, sự có mặt của họ cũng làm cho quán thêm đông, rất nhiều khách vì ái mộ họ mà đến. Một số khách còn vui vẻ bỏ tiền ra trả những chầu nhậu mát trời ông địa để được nghe Lam Sơn chửi đổng cho sướng lỗ tai.

Rượu vào là lời ra, Lam Sơn hết chửi Mỹ, đến chửi Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm, Cao Văn Viên, Đặng Văn Quang, Hoàng Xuân Lãm, Nguyễn Văn Toàn…Trong mắt ông đó là một lũ ăn hại. Thái độ khinh miệt này của Lam Sơn đều được đám an ninh Phủ Tổng thống ghi nhận, báo về cho Thiệu, nhưng Thiệu cũng chịu bó tay bởi chẳng biết phải đối phó cách nào trước một con người không còn gì để mất.

Lúc bấy giờ, nhà văn Nguyên Vũ đang tại ngũ với cấp bậc đại úy, có mấy lần ngồi nhậu với Lam Sơn, đã lớn tiếng phụ họa, phê phán Nguyễn Văn Thiệu và đám bộ hạ tham nhũng của ông ta, lập tức bị đày ra vùng 1 và bị cô lập trên núi Hòa Khánh. Dần dà, số người hào phóng nói trên không còn tìm đến quán rượu với Lam Sơn và các chủ quán cũng không còn mặn mà với ông nữa.

Không có tiền, bộ ba Lam Sơn - Hoàng Tùng - Huy Cường phải ghi sổ hết quán này đến quán khác. Riết rồi không còn nơi nào chịu cho họ thiếu nợ, bởi nợ cũ cứ chồng chất, chẳng biết bao giờ mới thu được. Từ đó, người ta thấy Lam Sơn hiếm khi xuất hiện ở những quán rượu sang trọng, chỉ còn vãng lai ở những quán nhậu bình dân.

Ngày 30/4/1975 đến, Lam Sơn cũng phải khăn gói lên đường đi cải tạo như tất cả những quan chức của chế độ cũ khác. Ông bị đưa vào Trại Hà Nam Ninh ở ngoài Bắc và trở thành một trại viên “mồ côi” bởi không có người thăm nuôi.

Ở trong trại, những lúc rỗi rảnh, Lam Sơn thường thư giãn bằng cách ca hát. Có một tấm hình khá thú vị, chụp ban tứ ca gồm: Cựu Thiếu tướng Lê Minh Đão (Tư lệnh sư đoàn 18 - đệm ghi ta) bên cạnh các “ca sĩ” cựu Thiếu tướng Nguyễn Xuân Trang (Tham mưu Trưởng Liên quân), cựu Thiếu tướng Lý Tòng Bá (Tư lệnh Sư đoàn 25, tất nhiên, tất cả đều của chế độ cũ) và Lam Sơn đang ngồi hát khi ở Trại Hà Nam Ninh.

Sau ngày được trở về, Lam Sơn được chính phủ Hoa Kỳ đồng ý cho định cư tại Mỹ theo diện H.O nhưng Lam Sơn đã từ chối. Có lẽ ông không thích người Mỹ và một phần cũng muốn ở lại quê hương. Một thời gian sau, thông qua người thân trong gia đình ông, một người bạn Pháp từng sát vai chiến đấu với ông tại chiến trường Tunisie là Tướng nhảy dù Guy Simon đã trình bày với Bộ Tư lệnh Nhảy dù, Bộ Ngoại giao và Bộ Di trú Pháp về trường hợp một cựu sĩ quan nhảy dù Pháp tên là Lam Son - Phan Đình Thứ và Tướng Simon đã đứng ra bảo lãnh cho cả gia đình Lam Sơn sang định cư tại Pháp. Chính phủ Pháp đồng ý và Lam Sơn đã sang Pháp năm 1989.

Lam Sơn qua đời ngày 23/7/2002. Và ước nguyện cuối cùng của ông là đúng 10 năm sau ngày mất, con cháu phải đem hài cốt của ông hỏa thiêu và đem nắm tro tàn về Việt Nam để ông được mãi mãi yên nghĩ giữa lòng đất mẹ.
Đoàn Thiên Lý

No comments:

Post a Comment