Saturday, June 4, 2011

Nhà Sư Trẻ Gốc Việt Thọ Giới Tỳ Kheo Tây Tạng.

Nhà sư trẻ gốc Việt thọ giới Tỳ kheo Tây Tạng

Xuân Đinh Hợi này, đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ làm lễ thọ giới Tỳ Kheo cho một vị sư rất trẻ. Trước đó, cũng Ngài đã đích thân làm lễ thọ giới Sa Di và Cụ Túc cho nhà sư. Đây là điều đặc biệt vì nhà sư là người đầu tiên rời Hoa Kỳ qua Ấn Độ xuống tóc trong một tu viện Tây Tạng vào dịp Tết Kỷ Mão 1999, khi mới 12 tuổi. Đặc biệt hơn nữa, đây là người Việt Nam đầu tiên được truyền thừa trong lịch sử hơn ngàn năm của Phật giáo Tây Tạng.

Sinh tại Quận Cam, ở miền Nam California trong một gia đình khá giả, lên tám tuổi, cậu bé họ Phạm đã muốn trở thành một Geshe Tây Tạng.

Mà Geshe là gì?

Geshe là học vị trong hệ thống Phật giáo Tây Tạng, tương đương với bằng Tiến sĩ về Phật học của Tây phương. Bình thường ra thì phải mất hai chục năm mới xong và nhiều người không xong nổi. Thế giới hiện chỉ có chừng 200 vị Geshe thôi.

Muốn được thành một Geshe thì phải thấm nhuần năm ngành học là Bát nhã ba la mật (Prajnaparamita), Trung quán luận (Madhyamika), Giới luật (Vinaya), A tỳ đạt ma luận (Abidharma) và Lý luận căn bản (Pramana Vidya). Thấm nhuần ở đây là phải nhập tâm, bằng Tạng ngữ, trong vài chục năm tu tập gian nan, hầu có thể ứng đối tranh luận trong mọi tình huống về mọi chủ đề trong các cuộc khảo hạch thường xuyên và từ đó đi hoằng pháp cho nhân thế. Đã vậy, từ thấp lên cao, học vị Geshe còn có bốn cấp là Dorampa, Lingtse, Tsorampa và cao nhất là Lharampa và trung bình thì phải sáu năm mới lên tới cấp tối ưu.

Thánh tăng Tây Tạng ngày nay, Kyabje Lati Rinpoche, được Đức Đạt Lai Lạt Ma yêu cầu hướng dẫn chú bé gốc Việt họ Phạm

Vị cao tăng Tây Tạng đã hướng dẫn chú bé họ Phạm là một Lharampa Geshe, một hóa thân của danh tăng Gongkar Rinpoche.

Ngài được tôn là châu báu trong hàng Thánh tăng Tây Tạng ngày nay, pháp danh là Kyabje Lati Rinpoche, hiện là cố vấn về Lý luận (Tsen-shabs) của đức Đạt Lai Lạt Ma. Môn sinh của Tulku Lati Rinpoche thường chỉ là những nhà sư được xác nhận là báo thân của một cao tăng, một vị đạo sư, một guru từ kiếp trước nguyện tái sinh để tiếp tục hạnh nguyện.

Và đức Đạt Lai Lạt Ma là người trực tiếp yêu cầu Tulku Lati Rinpoche dìu dắt chú bé.

Vì sao một chú bé sinh trong một gia đình Việt Nam tại Hoa Kỳ lại được nhận vào tu viện Tây Tạng, rồi được chính đức Đạt Lai Lạt Ma trao phó cho một vị cao tăng hàng đầu của Ngài việc hướng dẫn tu học đó?

Có lẽ phải đi từng bước để nhìn ra con đường học đạo của vị tăng người Việt này.

Với người Tây Tạng, đức Đạt Lai Lạt Ma là hóa thân của Đại từ Đại bi Bồ tát Quán Thế Âm. Việt Nam ta quen gọi vị Bồ tát ấy là Phật Quan Âm, vì vậy, nhiều người cũng gọi Ngài là Phật Sống Tây Tạng. Người Tây Tạng tôn Ngài là "Kundun" với ý nghĩa ấy.

Trong hệ thống Phật giáo Tây Tạng, một Lạt Ma được coi là hiện thân của Phật, và Bồ tát nguyện tái sinh để cứu độ chúng sinh. Bậc hóa thân ấy được tôn là Tulku ("Chu cô" theo cách phiên âm Hán-Việt). Danh hiệu Lạt Ma chỉ được dành cho những người giảng dạy giáo pháp và có thẩm quyền thực hành nghi lễ của Phật giáo. Trong số những người được chứng nhận là Lạt Ma, những vị uyên thâm và cao quý nhất thì được tôn là Rinpoche (nghĩa là "vô cùng quý báu"). Trong hàng giáo phẩm và triều đình Tây Tạng, người ta thấy nhiều cao tăng được tôn vinh là Rinpoche.

Bây giờ, chúng ta có đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 - một vị Phật Sống - ủy thác cho một Tulku Rinpoche việc dẫn đạo cho một nhà sư trẻ của Việt Nam...

Nhà sư này phải có gì đặc biệt mà có lẽ người thường như chúng ta chưa thấy hết được.

Cách đây bốn năm, nhật báo Orange County Register đã gửi một phái đoàn gồm hai nhà báo Anh Đỗ và Teri Sforza cùng đoàn nhiếp ảnh và truyền hình qua tận Ấn Độ để làm loạt phóng sự bốn kỳ về chú tiểu họ Phạm này. Người ta có thể tham khảo loạt bài được biên tập và trình bày công phu dưới tựa đề "The Boy Monk" tại trang nhà của tờ báo trong bốn số ra ngày 19 đến 22 tháng Giêng 2003.

Từ ngày đó đến nay, việc tu học của nhà sư này đã có sự tăng tiến.

Một người Mỹ xuất gia sang Ấn Độ tu Phật giáo đã là hiếm, nhưng vẫn có. Một người sinh tại Mỹ - thuộc thế hệ thứ nhì vì cha mẹ là người Việt tỵ nạn - thì lại hiếm hơn. Đây lại là người Mỹ đầu tiên được nhận vào tu viện Tây Tạng Gaden Shartse, trong tỉnh Mundgod của tiểu bang Karnataka ở miền Nam Ấn Độ để được tu học thành Sa di. Tên Mỹ-Việt Donald Phạm đổi thành Konchog Osel. Người thân thì gọi là Kusho. Konchog có nghĩa là hiếm quý, Osel là tịnh quang, ánh sáng trong lành, và Kusho là một cao tăng.

Thế rồi, sau khi khảo hạch thì chính Tulku Lati Rinpoche đã thỉnh đức Đạt Lai Lạt Ma làm lễ thọ giới Cụ túc cho chú tiểu sa môn. Có mặt trong buổi lễ cử hành vào đúng ngày Phật Đản còn có bốn vị Rinpoche khác. Chú được ban pháp danh là Tenzin Drodon, nghĩa là "Người nắm giữ Phật pháp" (Tenzin) "cứu độ chúng sinh" (Drodon). Drodon là một pháp danh ít có trong hệ thống Tăng già Tây Tạng.

Ngày nay, Phật giáo Tây Tạng có một nhà sư dung mạo sáng rỡ, nói sành sõi tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Tây Tạng với phương ngữ quý phái của Kinh đô Lhasa, ở bên kia đỉnh núi tuyết ngàn trùng. Vào mùa Xuân Đinh Hợi 2007, ở tuổi 21, Kusho sẽ thọ giới Tỳ kheo với đức Đạt Lai Lạt Ma, một điều kỳ lạ nữa. Trong lịch sử Tây Tạng, đây là người Việt đầu tiên được chính đức Đạt Lai Lạt Ma truyền thừa và truyền giới.

Có thể là sau này người ta mới được biết thêm rằng nhà sư trẻ cũng là hóa thân của một hành giả, nguyện tái sinh trong một gia đình Việt Nam tại Mỹ và tu học trong tu viện Tây Tạng tại Ấn vì lợi ích của chúng sinh. Ba vị cao tăng đã lần lượt hướng dẫn nhà sư là Lharampa Geshe Tsultim Gyeltsen tại tu viện ở Long Beach, là Lharampa Geshe Lati Rinpoche, một vụ Tulku tại tu viện Gaden Shartse ở Ấn Độ và đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14.

Bây giờ, chúng ta mới tìm hiểu về nhân vật này.

Vừa ra đời, Donald Phạm đã chững chạc như người lớn. Chú bé là học sinh ưu tú, thích âm nhạc, viết văn, trượt nước và chơi Nitendo! Là học trò giỏi tại trường Aliso Viejo Middle School, chú bé đủ thứ game trong nhà và thừa điều kiện thành công trong một môi trường đầy cơ hội là Hoa Kỳ. Ước nguyện ban đầu của chú là thành nhà văn hay bác sĩ. Nhưng, khác mọi đứa trẻ cùng tuổi, chú ít nói, kín đáo nhìn mọi sự chung quanh và đặc biệt quan tâm đến người khác.

Cha mẹ chú là những người khá giả và chăm sóc kỹ lưỡng tâm hồn các con. Mẹ chú sùng đạo từ khi còn ở Việt Nam. Tại Hoa Kỳ thì cả gia đình thường đến ngôi chùa Tây Tạng ở Long Beach, do đức Đạt Lai Lạt Ma đặt tên là Thubten Dhargye Ling, để tu học Phật pháp. Đây là một việc không dễ vì từ nhà đến chùa là 90 cây số và một tuần, gia đình lên chùa ba lần.

Donald vào chùa là có phản ứng khác lạ. Tưởng đứa con lơ đãng nhìn quanh, bà mẹ ngạc nhiên vì chú nghe được hết và nói lại rành mạch những khái niệm rất lạ. Thí dụ như hiện tượng "tâm viên ý mã" trong lúc thiền định! Người lớn nghe đã thấy khó lãnh hội, huống hồ một đứa trẻ ở tuổi mẫu giáo!

Năm chú lên bốn, bà mẹ đọc báo thấy có tin là vị Đạo sư Lati Rinpoche sẽ đến thuyết pháp ở Los Angeles. Quá mừng khi được cơ hội gặp vị cao tăng mà mình đã đọc lời giảng trong sách từ khi còn mang thai chú bé, bà dẫn chú đi nghe và năm đó Donald đã quy y với Tulku Lati Rinpoche!

Khi chú lên năm, cô em kém chú hơn một tuổi bỗng khóc òa vì làm vỡ cái đĩa. Chú bé đứng cao hơn quầy bếp đã lên giọng trấn an: "Đừng lo, đó chỉ là đồ vật thôi. Nếu chấp vào vật nhỏ như vậy thì khi chết, làm sao cái tâm bỏ được cái thân này?"

Rồi sau đó, thay vì là nhà văn hay bác sĩ, năm lên tám, chú muốn thành một Geshe!

Thấy con mình có ý đi tu để thành Geshe, bà mẹ trình bày với vị Hoà thượng trụ trì tu viện Phật giáo Tây Tạng tại Long Beach là Lharampa Geshe Tsultim Gyeltsen, thường được Phật tử quý mến gọi là Geshe La.

Hoà thượng Geshe La khuyên là hãy kiên nhẫn tìm hiểu tâm tư chú bé đã. Cho con vào chùa là chuyện thường tình ở Á châu và Tây Tạng, nhưng chúng ta đang ở tại Hoa Kỳ, trong một khu vực trù phú lịch sự. Con đường tới chùa là một chặng đường khá xa cần phải tìm hiểu. Mà cách tìm hiểu hay nhất là chính họ phải qua tận Ấn Độ thăm viếng một ngôi chùa Tây Tạng đủ lâu để thấy hết tận mắt. Thày dạy, tu viện là một đại dương, có rất nhiều ngọc nga châu báu vật đấy nhưng cũng có cá mập.

Hãy tìm hiểu rồi mới quyết định cho chú bé.

Khi Donald Phạm lên chín, năm 1995, cha mẹ chú quyết định sang thăm tu viện, cách đó đúng là vạn dậm. Bước đầu là từ California bay qua Ấn Độ, rồi đi xe buýt leo đèo băng suối tới một tu viện trong khu định cư của người Tây Tạng tại Mundgod, thuộc tiểu bang Karnatala ở miền Nam Ấn Độ. Đó là tu viện Gaden Sharte của dòng Gelugpa Phật giáo Tây Tạng.

Khu vực định cư cho dân tỵ nạn thường không là một vùng đất trù phú thịnh vượng. Sự nghèo khổ và thiếu thốn là quy luật chung. Huống hồ là nơi tu hành. Người viện trưởng của Tu viện chính là ngài Tulku Lati Rinpoche mà gia đình họ Phạm đã đọc rồi đã gặp tại Los Angeles.

Phép sinh hoạt nơi đây là sự khắc khổ nghiêm ngặt. Mọi người thức giấc từ năm giờ sáng, chư tăng áo đỏ tụng kinh đến bảy giờ rồi ăn sáng. Thực đơn khác hẳn bữa điểm tâm trong một ngôi nhà khang trang ở Laguna Niguel tại California. Bánh mì chấm trà có pha đường, bơ tẩm muối. Sau đó là học ngôn ngữ và tranh luận đến trưa. Quá ngọ là buổi học với các đạo sư cho đến chiều. Cơm tối là cháo. Xong cơm là học tiếp về Phật pháp qua tranh luận, có khi đến nửa đêm...

Giáo trình đào tạo còn nặng hơn mọi trường tư thục ưu tú nhất của Mỹ! Và không có các màn giải trí qua truyền hình, chơi game, nghe nhạc từ DVD... Cũng không có quà vặt, máy giặt máy xấy, nước nóng phòng riêng...

Làm sao cho con mình vào sống nơi đó?

Gia đình ở lại sáu tuần và chú Donald Phạm cho biết là muốn học đạo ở nơi đây.

Trường hợp của chú hiển nhiên đã được Geshe La và Tulku Rinpoche chú ý. Phải tìm lời giải trong phép khảo chứng bí truyền của Tây Tạng. Vị cao tăng thực hiện buổi lễ linh thiêng ấy chính là Tuku Rinpoche. Lời giải là chú bé này là một đứa trẻ đặc biệt, sẽ vào chùa thành một vị sư Tây Tạng. Donald Phạm cũng cảm thấy như vậy.

Việc cháu Donald muốn đi tu đã gây nhiều phản ứng và tranh luận trong đại gia đình. Đầu tiên thì chị và em không muốn xa Donald. Còn ông ngoại thì hoàn toàn không vui! Điều ấy cũng thật dễ hiểu. Nhưng ý của chú đã quyết và cha mẹ cũng thông cảm và hỗ trợ nên mọi người quen dần với quyết định này.

Gần bốn năm trôi qua, rồi vào dịp Tết Kỷ Mão 1999, cả gia đình Donald Phạm đã theo Hoà thượng Geshe La qua Ấn Độ. Chú sẽ ở lại nơi đây. Tết Nguyên đán Kỷ Mão thì xuống tóc, trở thành Sa di Kusho Konchog Osel. Tu viện có 1.500 người cùng học nhưng chú được chính đức Đạt Lai Lạt Ma ân cần phó thác cho vị Viện trưởng Tulku Lati Rinpoche trực tiếp hướng dẫn. Mọi người ân cần gọi chú là Kusho-la.

Hai năm sau, Kusho được đưa lên Dharamsala, miền cực Bắc Ấn Độ, vào học viện Lý luận Phật giáo, Institute of Buddhist Dialectics. Có 300 sinh viên, học viện này nằm gần thị trấn McLeod Ganj của Ấn. Thị trấn được gọi là "Little Lhasa", trụ sở của Chính quyền Lưu vong Tây Tạng, và học viện IBD là nơi đức Đạt Lai Lạt Ma thường giảng pháp.

Trong học viện, tiểu Sa di Kusho là người trẻ nhất và được chú ý vì khả năng lãnh hội lẫn tranh luận. Chú còn được khen là từ tốn khiêm nhường và thường trầm lặng trước mối quan tâm của truyền thông báo chí. Nhiều người đã luận rằng Kusho có thiện nghiệp để trở thành sư, và có phúc duyên được hướng dẫn bởi những vị cao tăng để theo đuổi Phật học đến chỗ thâm sâu.

Ngày nay, Kusho đã thành một vị sư 21 tuổi, và Xuân này sẽ thọ giới Tỳ kheo với chính đức Đạt Lai Lạt Ma, thành Shakya Bikshu Tenzin Drodon.

Trong khi ấy, gia đình ở nhà cũng thay đổi.

Càng luống tuổi, ông ngoại của Kusho càng thấy ra hai lẽ. Phần mình, thì đời người quả là hữu hạn. Phần cháu ngoại Donald, thì việc cháu trở thành sư là một điều lành.

Đầu năm 2007, ông cụ lâm trọng bệnh và từ Ấn Độ, Kusho trở về thăm ông, có thể là lần cuối. Hai ông cháu gặp nhau trong một cảnh ngộ cảm động.

Được hỏi về chuyến thăm viếng, nhà sư trẻ giải thích là vì muốn cầu nguyện cho tâm của ông ngoại được thảnh thơi, vững mạnh, và buông xả hết mọi ưu phiền.

Kusho không tin là mình có "thần lực" hay khả năng hộ niệm để ông "siêu sinh tịnh độ" như ta thường nói. Cháu chỉ muốn gặp ông, hàn huyên để ông vui với tuổi già, có cái nhìn lạc quan tích cực về mọi chuyện. Riêng mình, thì đứa cháu rất cảm động nghe ông nói, rằng mình mừng cho cháu đã đi tìm hạnh phúc trong sự tu tập, vì hạnh phúc thật là khi mưu cầu cho hạnh phúc của người khác. Hai ông cháu đã hoàn toàn cảm thông và cùng nhìn vào một hướng.

Nói đến chuyện "thần lực" hay "hóa thân", đề tài kỳ diệu khi ta nghĩ đến Phật giáo Tây Tạng, Kusho cười hiền hoà và giải thích bằng cả tiếng Việt lẫn tiếng Anh: Không, chú không là hoá thân hay đang tu tập để có thần lực thi hành được những việc siêu nhiên. Việc tu tập để tìm thần lực hay khả năng siêu nhiên là điều sai.

Nhưng, khi tu tập, Kusho thấy hay nghĩ "mình là ai?" Là một chú bé Việt Nam, một thiếu niên Mỹ hay một Sa di Tây Tạng - Là tất cả!

Ban đầu, khi ở trong Tu viện Gaden thì còn mơ hồ vì có lúc thấy mình là một thiếu niên Mỹ, một đứa trẻ Việt Nam, và nhất là khác lạ với chúng bạn người Tây Tạng chung quanh. Thế rồi một cách tiệm tiến và nhẹ nhàng tự nhiên, chú thấy mình tách rời với tất cả những "hành trang" ấy của quá khứ mà cảm nhận ra một sự thể gì bao nhiếp tất cả. Một sự an nhiên kỳ lạ khiến mình thấy thư thái và tự do hơn.

Cảm giác gọi là "giải thoát" ấy xuất phát từ sự tu tập hay từ ý chí của mình? - Có lẽ, phép tu tập giúp cho ý chí ấy thành vững mạnh hơn và quan trọng nhất, giúp cho mình thấy được cách suy nghĩ tích cực và nuôi dưỡng nghị lực tích cực.

Kusho suy nghĩ rồi nói bằng tiếng Anh: "Positive Energy"

Nhưng, trong tu viện Gaden hay trong học viện ở Dharamsala, Sa môn Kusho có biết hay được biết gì về thế giới bên ngoài không, về "đời sống thật" không?

Ban đầu, trong tu viện thì chỉ học về kinh điển và phép luận giải, chứ qua học viện tại Dharamsala thì các học viên đều có thể xem truyền hình và đọc báo để biết về những gì đang xảy ra trên thế giới. Chính đức Đạt Lai Lạt Ma đã muốn các học viên chứng đắc Phật pháp bằng cách hiểu được cộng đồng và thế giới. Ngoài ra, giáo trình của học viện chẳng khác gì nhiều nếu so với một Đại học tân tiến, học viên được giáo dục để biết về thế giới cũng như Phật pháp.

Sau khi hoàn tất khóa học rất dài tại Dharamsala, Kusho sẽ trở lại tu viện Gaden và lúc ấy mới lại sống như một vị tăng trong chùa.

Nhưng, khi biết rằng thế giới này "khổ" - vì nạn đói ở Phi châu hay khủng bố tại Trung Đông chẳng hạn - học viên nghĩ sao? Và muốn làm gì để giải trừ cái khổ ấy?

Nhà sư trẻ suy nghĩ giây lát mới giải thích. Trước hết, những tin tức ấy có giá trị "khích lệ", là yếu tố càng thúc đẩy học viên phải tu tập để góp phần giải trừ cái khổ.

Nhưng, nhìn từ các tu viện, cái khổ ấy có là một ý niệm trừu tượng xa vời của "chúng sinh" hay của người khác không? Thí dụ như một bác sĩ vẫn có thể chữa chạy cho bệnh nhân sau khi học về những triệu chứng hay hậu quả của bệnh. Một nhà xã hội cũng có thể học về khủng hoảng để góp phần giải quyết dù mình chẳng là nạn nhân... Liệu cảm nhận về cái khổ này có là một khái niệm tách bạch xa vời vì không trực tiếp liên hệ đến mình ở trong chùa hay trong học viện?

Kusho tìm chữ diễn tả, cả Việt lẫn Anh, rằng sự hiểu biết về cái khổ ấy tác động rất mạnh vào tâm trí, nhưng theo hướng khác. Ý thức về những vấn đề ấy khiến mình càng thêm tin tưởng vào Phật pháp và càng thôi thúc mình làm một cái gì đó để cứu giúp người khác. Đây cũng là bước cần thiết để chứng nghiệm đức tin của mình.

Nếu tu học để thành sư mà không nghĩ đến việc giúp đỡ người khác thì là một sự lãng phí! Phật giáo Tây Tạng rất chú ý đến việc tu dưỡng Bồ đề tâm, đến Bồ tát hạnh và coi việc giúp đỡ người khác là một bổn phận trọng yếu, một phần không thể tách rời trong đức từ bi của người Phật tử.

Nói đến người khác, Kusho có nghĩ đến người Việt và Phật giáo Việt Nam không?

Vị Sa môn trẻ này cám ơn mẹ cha là những Phật tử đã khuyến khích và giúp đỡ mình trên con đường học đạo. Chính là tấm lòng yêu thương của bà mẹ đã khiến chú cố gắng tu tập để có thể làm tròn bổn phận với Việt Nam.

Vì vậy, sau giai đoạn tu chứng, nhà sư trẻ còn phải đi một bước rất xa là học hỏi thêm về Việt Nam và Phật giáo Việt Nam.

Phật giáo Tây Tạng theo Kim cang thừa (Varayana) của Đại thừa Mahayana, nhưng cũng áp dụng phép tu có đặc tính Mật tông và cả Bồ tát hạnh trong những giáo lý nền tảng của Phật giáo Nguyên thủy Theravada. Vì vậy, trong giáo trình đào tạo và tu học, các học viên đều phải thấm nhuần những lý giải Tiểu thừa hay Nguyên thủy. Sau này, Kusho sẽ học thêm về những đặc tính đa diện của Phật giáo Việt Nam và phải thông thạo tiếng Việt để tiếp xúc với Phật tử người Việt.

Một con đường rất dài... Khi viết, Kusho sử dụng cả hai tay, trái và phải, để viết chữ Tây Tạng hay tiếng Anh. Khi học, có lẽ cũng phải nhớ đến tương lai là tìm đến Phật giáo Việt Nam. Vả lại, chính đức Đạt Lai Lạt Ma đã căn giặn như vậy.

Hôm đó, sau khi được Ngài truyền giới, vị tiểu sa môn được đức Đạt Lai Lạt Ma gọi riêng ra chụp chung tấm hình. "Con giữ tấm hình này cho quê hương con. Cho nước Việt Nam". Kusho treo tấm hình trong trai phòng tại học viện, như một nhắc nhở hàng ngày.

Việc nhà sư Tenzin Drodon này sẽ chứng đắc học vị Geshe có thể chỉ là thời gian vì tâm nguyện như vậy. Nhưng, việc một người có tâm hồn và giáo dục Việt Nam được tu học thành nhà sư Tây Tạng mới là một hạnh ngộ hiếm hoi.

Lời khuyên của Tulku Lati Rinpoche là Kusho hãy cố gắng tinh tấn tu học để trở thành một sa môn đầy đủ Bồ tát hạnh là Bi, Trí, Dũng để hoằng pháp lợi sanh cho nhân thế. Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rõ hơn trong từng buổi gặp gỡ: "Đừng quên Việt Nam. Lòng từ bi và trí tuệ của con sẽ giúp ích rất nhiều cho quê hương con."

Pháp danh Drodon quý hiếm này, có lẽ Ngài chọn cho Kusho để hướng tới trách nhiệm với Việt Nam.

Sông Mekong xuất phát từ vùng đất Kham đã tái sinh của hai vị cao tăng Tây Tạng là Gehse La và Tulku Rinpoche. Nơi con sông này đổ ra biển chính là Việt Nam.

Phải chăng, đức Đạt Lai Lạt Ma đã thấy vạn sự từ đầu nguồn tiền kiếp, mà chưa đến lúc nói ra?
Copyright © 2009 Cộng Đồng Phật Giáo New England| All Rights Reserved
Webmaster & Designer: Thích Nguyên Dũng


THẤY TIỀN KIẾP
Chắc chắn tu thiền thấy kiếp xưa
Những ai chứng đắc,biết,không ưa
Chuyên tâm quán chiếu nơi nguồn cội
Gắng sức lui về chổ đã đưa..               (đến)
Thâm nhập cảnh đời như sống thật
Rõ ràng cuộc sống chắc  như vưà..     (mới đây)
Dỉ nhiên ! Cứu cánh là không phải
Tin có như vầy ! Nhân quả đưa .
     
mbz,md.11'


Xin mời xem những câu chuyện thật dướí đây...

ST


LUẬT NHÂN-QUẢ LUÂN-HỒI

Nhân-quả luân-hồi đã chứng minh
Đọc bao sách-vở ở quanh mình
Mấy ngàn năm trước Phật truyền đạo
Suy-ngẫm việc đời thấy phải tin.

Quả-báo nhãn-tiền đã thấy rồi(1)
Còn chưa thức tỉnh hỡi ai ơi!
Đam-mê vật-chất gây nhân ác
Trả quả kiếp sau đau khổ thôi!

Thần-đồng quá trẻ ở đâu ra?
Kiếp trước nhân tài nổi tiếng mà!
Tài-trí thông minh thật xuất-chúng
Kiếp này hưởng quả thật tài-hoa.

Đứa trẻ nhớ lại từ kiếp trước(2)
Dẫn cha mẹ đến nơi quê xưa.
Nhớ từng kỷ-niệm người yêu mến
Bí-ẩn nầy bằng-chứng được chưa?

Người sanh ra ở quê-hương nầy
Nằm ngủ say nhưng nói tiếng Tây... (3)
Kể rõ xứ sanh ra kiếp trước
Luân-hồi sanh trở lại nơi đây.

Đức Đạt-Lai Lạt-Ma Tây-Tạng (4)
Trở lại tái-sanh tại Hoa-Kỳ.
Xin nguyện về tu nơi xứ cũ 
Truyện nầy xem thấy thật ly-kỳ!

Nhân-quả luân-hồi là đúng thật
Không gì tiêu-mất ở đời nầy.
Sống sao từ-giả không ân-hận
Thăng tiến tâm-linh quý lắm thay!

Dòng sống không bao giờ bị mất
Luân-hồi qua kiếp khác mà thôi!
Hay siêu-thăng lên miền Cực-Lạc
Vĩnh-viễn an-lành không luân-hồi.

Minh Lương Trương Minh Sung
Cali. ngày 01 / 06 / 2011

(1) Vụ  không-tặc khủng-bố ngày 9/11/2001 tại Hoa-Kỳ...
(2) Có nhiều truyện thật ở VN và nước khác...
(3) Chuyện thật ở Mỹ - bị thôi miên khi ngủ và nói tiếng Tây , tiếng Đức...kể lại kiếp trước sống nơi đây!
(4) Chuyện thật của cậu bé người Mỹ gốc Việt đang tu học tại Tây-Tạng tên Donald Phạm đã trở thành Tỳ Kheo lúc 21 tuổi.
     Đức Lạt-Ma viên-tich tại Tây-Tạng rồi luân-hồi tái-sanh tại Hoa-Kỳ - bây giờ xin trở lại Tây-Tạng tu-hành tiếp...


Luật Luân hồi với những người nổi tiếng

Trên thế giới có nhiều người tin vào sự Luân hồi. Một số chỉ tin một cách hời hợt mơ hồ, nhưng cũng không ít người hiểu Luân hồi là một quy luật của sự sống, và quy luật ấy có ý nghĩa rất sâu xa.

Henry Ford
Luật Luân hồi và những người nổi
                              tiếng (I) - Tin180.com (Ảnh 1)

Henry Ford (30/7/1863 – 7/4/1947) là người sáng lập Công ty Ford Motor, là một trong những người giàu nhất thế giới
“Tôi biết thuyết Luân hồi từ khi tôi 26 tuổi. Thiên tài chính là kinh nghiệm. Một số người nghĩ rằng nó là một món quà hay là tài năng, nhưng thực ra là kết quả
của kinh nghiệm lâu dài trong nhiều kiếp sống”.
Benjamin Franklin
Luật Luân hồi và những người nổi
                              tiếng (I) - Tin180.com (Ảnh 2)

Benjamin Franklin (17/01/1706 – 17/ 4/1790) là một trong những nhà lập quốc của Hoa Kỳ. Ông là một chính trị gia, một nhà khoa học, một tác giả, một thợ in,
 một triết gia, một nhà phát minh, nhà hoạt động xã hội, một nhà ngoại giao hàng đầu
“Tôi nhìn nhận cái chết cũng cần thiết đối với chúng ta như giấc ngủ vậy. Chúng ta sẽ sống dậy khỏe khoắn vào buổi sáng…”
“Tôi tin rằng tôi sẽ luôn luôn tồn tại, ở dạng này hay dạng khác”.
Jack London
Luật Luân hồi và những người nổi
                              tiếng (I) - Tin180.com (Ảnh 3)

Jack London (12/1/1876 – 22/11/1916) là nhà văn, nhà báo, nhà hoạt động xã hội Hoa Kỳ nổi tiếng thế giới
“Tôi không bắt đầu khi tôi được sinh ra, cũng không phải khi được thụ thai. Tôi lớn lên, phát triển, qua hàng vạn thiên niên kỷ không thể tính đếm. Tất cả bản ngã trước đây của tôi đều có tiếng nói, tiếng vọng của họ, đang thúc giục trong tôi. Ồ, tôi sẽ lại được sinh ra vô số lần nữa”.
Napoleon
Luật Luân hồi và những người nổi
                              tiếng (I) - Tin180.com (Ảnh 4)
Hoàng đế Napoleon (15/8/1769 – 5/5/1821) của nước Pháp
Napoleon thích nói với các tướng lĩnh của mình rằng ông tin vào Luật Luân hồi và thậm chí còn kể họ nghe ông tin mình đã từng là những ai trong các
tiền kiếp của mình.
Mark Twain
Luật Luân hồi và những người nổi
                              tiếng (I) - Tin180.com (Ảnh 5)
Samuel Langhorne Clemens (được biết đến với bút hiệu Mark Twain; 30/11/1835 – 21/4/1910) là một nhà văn, nhà diễn thuyết nổi tiếng Hoa Kỳ
Tôi đã được sinh ra nhiều lần hơn bất kỳ ai, ngoại trừ Krishna”
Leo Tolstoy
Tác giả bộ “Chiến tranh và hòa bình”
Luật Luân hồi và những người nổi
                                tiếng (I) - Tin180.com (Ảnh 6)
Nhà văn Nga vĩ đại Leo Tolstoy (9/9/1828 – 20/11/1910) còn là nhà viết kịch và nhà cải cách giáo dục có ảnh hưởng rất lớn
“Cũng như chúng ta trải qua hàng ngàn giấc mơ trong cuộc đời hiện tại của mình, cuộc đời hiện tại của chúng ta chỉ là một trong hàng ngàn cuộc đời mà chúng ta tiến nhập vào, từ cuộc đời khác thực hơn rồi quay trở về sau khi chết. Cuộc đời của chúng ta chỉ là một trong những giấc mơ của cuộc đời thực hơn ấy, và do đó nó là vô tận, cho đến tận cuộc đời cuối cùng, cuộc đời rất thực của Thần”.
Johann Wolfgang von Goethe
Luật Luân hồi và những người nổi
                                tiếng (I) - Tin180.com (Ảnh 7)
Johann Wolfgang von Goethe (28/8/1749 – 22/3/1832) là nhà văn và học giả Đức hết sức nổi tiếng. Ông được xem là một thiên tài kiệt xuất của văn học Đức. Ông làm việc trong lãnh vực thơ ca, kịch nghệ, văn học, triết học và khoa học
“Chừng nào bạn chưa biết định luật liên miên của Sự chết và Tái sinh, bạn chỉ là một vị khách mơ màng trên Trái đất tối tăm”.
Mahatma Ghandi
Luật Luân hồi và những người nổi
                                tiếng (I) - Tin180.com (Ảnh 8)
Mahatma Ghandi (2/10/1869 – 30/1/1948) là nhà lãnh đạo kiệt xuất, anh hùng của dân tộc Ấn Độ
“Tôi chẳng thể nghĩ về sự thù địch lâu dài giữa người với người, và tôi tin ở thuyết luân hồi, tôi sống trong hy vọng rằng nếu không phải trong kiếp này, thì trong kiếp nào đó khác tôi sẽ có thể ôm tất cả nhân loại trong vòng tay thân ái”.

Đại tướng George S. Patton
Luật Luân hồi và những người nổi
                              tiếng (II) - Tin180.com (Ảnh 1)
George Smith Patton Jr. (11 tháng 11, 1885 – 21 tháng 12, 1945), còn được gọi là George Patton III, là một tướng lĩnh, nhà chỉ huy quân sự nổi tiếng của Lục quân Hoa Kỳ
“Như khi tôi nhìn xuyên qua một tấm gương, tôi thấy mờ mịt cuộc xung đột trường kỳ, khi tôi chiến đấu trong nhiều cái vỏ, nhiều cái tên, nhưng luôn luôn là tôi”.

Ralph Waldo Emerson
Luật Luân hồi và những người nổi
                              tiếng (II) - Tin180.com (Ảnh 2)
Ralph Waldo Emerson (25/5/1803 –27/4/1882) là một giảng viên, nhà văn, nhà thơ lớn của Hoa Kỳ thế kỷ 19
“Linh hồn từ bên ngoài đi vào trong thân thể, như là vào trong một nơi trú ngụ tạm thời, và nó đi ra khỏi đó, nó lại chuyển vào những nơi cư trú khác, bởi vì linh hồn là bất tử”.
“Đó là bí mật của thế giới, rằng mọi thứ tồn tại và không chết đi, mà chỉ ra khỏi tầm nhìn đôi chút và sau đó quay trở lại. Không gì chết cả; người ta tưởng mình chết, và bắt chước nhau chịu đựng những đám ma…”

Walt Whitman
Luật Luân hồi và những người nổi
                                tiếng (II) - Tin180.com (Ảnh 3)
Walt Whitman (31/5/1819 – 26/3/1892) – nhà thơ, nhà báo, nhà nhân văn lớn của Hoa Kỳ và thế giới
“Tôi biết mình bất tử. Tôi không hề nghi ngờ rằng mình đã chết cả chục ngàn lần trước đây. Tôi cười vào cái mà bạn gọi là cái chết…”

Jalalu Rumi
Luật Luân hồi và những người nổi
                                tiếng (II) - Tin180.com (Ảnh 4)
Jalalu Rumi (30 /12/1207 – 17/12/1273) là nhà thơ Ba Tư nổi tiếng thế kỷ 13
“Tôi đã chết khi là một khoáng vật và trở thành cây, tôi đã chết khi là một cái cây và trỗi dậy thành động vật, tôi đã chết khi là động vật và tôi thành người”.

Carl Jung
Luật Luân hồi và những người nổi
                              tiếng (II) - Tin180.com (Ảnh 5)

Tiến Sĩ Carl Gustav Jung là một nhà khoa học rất có tên tuổi, là cha đẻ của khoa Phân tâm học, là một nhà tư tưởng tiên phong, và còn giỏi về nhiều ngành khoa học khác nữa. Ông tin tưởng sâu sắc vào sự Luân hồi.
“Cuộc đời tôi đối với tôi thường giống như một câu chuyện mà không có khởi đầu và không có kết thúc. Tôi có cảm giác rằng mình là một mảnh lịch sử, là một đoạn trích mà phần văn bản phía trước và phía sau đang thiếu vắng. Tôi có thể đoán được một cách hợp lý rằng mình đã từng sống trong những thế kỷ trước đây và ở đó tôi đã gặp phải những câu hỏi mà tôi chưa thể trả lời được; rằng tôi đã được sinh ra lần nữa bởi vì tôi chưa hoàn thành sứ mệnh được trao”.

Socrates
Luật Luân hồi và những người nổi
                                tiếng (II) - Tin180.com (Ảnh 6)
Socrates (469 TCN –399 TCN) là triết gia vĩ đại của Hy Lạp và thế giới
“Tôi tin chắc chắn rằng thực sự có một điều như là sống lại lần nữa, rằng cái sống xuất hiện từ cái chết, và rằng linh hồn của người chết đang tồn tại”.

Voltaire
Luật Luân hồi và những người nổi
                                  tiếng (II) - Tin180.com (Ảnh 7)

François-Marie Arouet
(21/11/1694 – 30/5/1778), nổi tiếng dưới bút danh Voltaire là một nhà văn, nhà sử học và triết gia lừng danh người Pháp,
và cũng là một nhà ủng hộ tích cực cho tự do và dân chủ
“Được sinh ra 2 lần chẳng có gì đáng ngạc nhiên hơn 1 lần; mọi thứ trong tự nhiên đều phục sinh”.
Honore Balzac
Luật Luân hồi và những người nổi
                                tiếng (II) - Tin180.com (Ảnh 8)
Honoré de Balzac (1799–1850) là nhà văn hiện thực Pháp lớn nhất nửa đầu thế kỷ 19, bậc thầy của tiểu thuyết văn học hiện thực. Ông là tác giả của bộ tiểu thuyết đồ sộ “Tấn trò đời”
“Tất cả loài người đều phải trải qua tiền kiếp… Ai biết được bao nhiêu thể xác thịt mà người kế thừa thiên đường chiếm giữ trước khi ông ta có thể hiểu được giá trị của sự im lặng tĩnh mịch của các thế giới thần thánh?”

Paul Gauguin
“Khi cơ thể vật lý vỡ tan, linh hồn vẫn sống sót.Nó sẽ chiếm lấy một thân thể khác”.

George Harrison
“Bạn bè tất cả đều là những linh hồn mà chúng ta đã biết ở các kiếp khác. Chúng ta đã được kéo lại gần nhau.Thậm chí nếu tôi chỉ biết họ một ngày, cũng không sao cả. Tôi sẽ không chờ cho đến khi tôi biết họ được 2 năm, bởi vì dù sao đi nữa, chúng ta phải đã gặp nhau đâu đó trước kia rồi, bạn biết đấy”.

Pythagoras
Luật Luân hồi và những người nổi
                                tiếng (II) - Tin180.com (Ảnh 9)
Pythagoras (Khoảng 570 TCN – 495 TCN) là nhà toán học và triết gia lỗi lạc của nhân loại
Ở Hy Lạp cổ đại, luân hồi là một học thuyết liên hệ gần gũi với các môn đệ của nhà toán học – triết gia Pythagoras. Theo Pythagoras, linh hồn sống sót sau cái chết vật lý và luân hồi có hạn.
Có lẽ câu hỏi “Luân hồi có thật hay không?” đã lỗi thời, và câu hỏi “Trước khi rơi vào vòng xoáy luân hồi, chúng ta là ai? Sau khi ra khỏi vòng xoáy ấy, chúng ta về đâu?” quan trọng và thực tế hơn. Đối với nhân loại đó là một cánh cửa bí ẩn mà chỉ khi chịu khó đi tìm người ta mới có thể mở ra được.

Minh Trí(tổng hợp)

No comments:

Post a Comment