Tuesday, August 16, 2011

VIỆT KIỀU

VIT KIỀU


VIỆT-KIỀU
Tống-Phước-Hiến
    
Cuộc chiến-tranh vừa qua, nhiều người lầm tưởng đã kết thúc vào ngày 30.4.1975 và bị đánh giá là cuộc nội-chiến Nam Bắc, mà Cầu Hiền-Lương vắt qua giòng sông Bến-Hải, trên vĩ-tuyến 17 là biểu-tượng cho một giai-đoạn xót-xa của lịch-sử. Thật ra, cuộc chiến-tranh đó vẫn được tiếp-diễn, nhưng theo thế-trận khác và ý-nghĩa cũng được nhận-định lại đúng đắn hơn !
Sau 30.4.1975 Cộng-sản phơi bày chân-tướng là một lũ phỉ quyền tham ác lưu-manh; nên Người Quốc-Gia giành đoạt được chính-nghĩa và tiến-hành cuộc chiến-tranh giải-phóng Dân-tộc hầu có điều-kiện đưa đất-nước đến phồn thịnh, nhân-dân được tự do. Trận quyết đấu nầy, người Quốc-Gia đang thắng-thế, từng bước chứng-minh Cộng-sản Việt Nam là tội-phạm nhân-loại, là tội-đồ Dân-tộc. Nhưng bỗng nhiên hàng-ngũ chúng ta có hiện-tượng giao-động, địch biết tránh né, thoát hiểm. Th́ì ra, chúng ta đang bị một loại “nội thù” rất nguy-hiểm mà mọi người thường gọi bằng tên nghe khá hiền lành “Việt-kiều” !.
Tất-cả những người Việt Nam, nếu không là bọn có quyền thế sống hoan-lạc trên nỗi thống-hận Dân-tộc, và nếu có điều-kiện đều phải đành lòng chấp-nhận gian-nan, nghiệt-ngã, nguy-hiểm, đau nhục để đào thoát ra đi. Sóng nước đại-dương, rừng sâu, hải tặc, thổ-phỉ…... không cản ngăn được ý chí. Họ đào thoát khỏi Cộng-sản dưới nhiều h́ình-thức như vượt biên, vượt biển, con lai, bảo-lãnh đoàn tụ, cựu tù nhân (H.O), cựu nhân-viên Chính-phủ Hoa-Kỳ (U.11), thuyền-nhân hồi hương (ROVR); đào tỵ khi xuất ngoại như công-tác, biểu-diễn nghệ-thuật, thi đấu, công-nhân trong chương-trình"xuất-khẩu lao-động"; ngay cả những du-học-sinh hay du-lịch… v.v...phần đông trong thâm tâm họ cũng mơ ước cho toàn dân Việt Nam thoát khỏi ách nạn Cộng-sản.
Đối với Việt-cộng, những người hội đủ điều-kiện được tái định-cư ở nước ngoài khi trở về Việt Nam đều bị xếp vào loại người có danh xưng là “VIỆT-KIỀU”.
Nếu lấy 30.4.1975 làm thời-điểm, thì trước đó đă có nhiều đợt người Việt Nam đến sinh sống tại nhiều nước khác với nhiều lý-do:
A.- Tỵ-nạn do bị bức hại:
I/ Thời nhà Lý có hai đợt ra đi của hai Thân Vương nhà Lý và cùng trôi giạt vào nước Cao-Ly (hay còn gọi là Triều-Tiên hoặc Đại-Hàn):
1/ - Đại-Đô-Đốc Kiến-Hải-Vương Lý-Dương-Côn cùng chiến thuyền binh-sĩ thuộc quyền, gia-nhân và gia-thuộc ra đi vì sợ bị phía bà Chiêu-Hiếu Thái-Hậu và Cảm-Thánh Hoàng-Hậu giết chết trong âm mưu tranh đoạt ngai vàng cho Hoàng-tử Thiên-Tộ (Tức vua Lý-Thần-Tôn).
2/ - Các Đô-Đốc Kiến-Bình- Vương Lý-Long-Tường, Bình-Hải-Công Lý-Quang-Bật cùng hạm đội dưới quyền và khoảng 6.000 người để tránh họa diệt tộc của Thái-Sư Trần-Thủ-Độ trong mưu-đồ tiếm-đoạt Vương quyền nhà Lý cho nhà Trần.
II/ Thời nhà Nguyễn cũng có nhiều đợt với nhiều lý-do, đa số cư ngụ tại Bangkok Thái-Lan:
1/ - Nhóm cùng bôn tẩu theo Nguyễn-Ánh (tức vua Gia-Long), vào cuối Thế-kỷ thứ 18.
2/- Nhóm theo Thiên-chúa-giáo lánh-nạn sát đạo dưới thời Minh-Mạng, Thiệu-Trị(1820 –1847).
3/ - Nhóm thuộc hạ của Cụ Phan-Đình-Phùng trốn giặc Pháp vào khoảng 1895.
4/ - Nhóm theo Cụ Phan-Bội-Châu (1908 – 1909).
B.- Với những lý-do khác:
Bị Thực-dân Pháp lưu-đày, ép buộc trong chương-tŕình mộ dân, gia-nhập Quân-đội Liên-hiệp Pháp, du-học và không trở về hoặc xuất bôn chiến-đấu giành chủ-quyền cho Tổ-Quốc. Phần đông lưu-trú tại Pháp hay các Quốc gia thuộc Pháp, hoặc Trung-Hoa, Cao-Mên. Ai-Lao. Ngoài ra c̣òn có một số ít định-cư tại những Quốc-Gia khác với nhiều lý-do.
Trước khi đất nước rơi vào tay Cộng-sản, những người có nguồn-gốc Việt Nam, đang sinh-sống ở nước ngoài được gọi là Kiều bào để phân-biệt những sắc dân khác trú ngụ trên lãnh-thổ Việt Nam như Ấn-kiều, Hoa-kiều, Pháp-kiều. Nên khi Cộng-sản gọi những người Việt Nam đang định-cư ở nước ngoài là Việt Kiều đã hàm chứa ý-nghĩa những người nầy không còn là người Việt Nam. Số phận Việt Kiều chơi-vơi giữa người Ngoại Quốc và người Việt Nam tùy theo từng trường-hợp, nhưng bao-giờ Việt Kiều cũng bất-lợi kể cả trường-hợp so-sánh giữa Việt Kiều và những người thuộc các sắc dân khác cùng vào lãnh-thổ Việt Nam trong cùng thời-gian và cùng có lý-do phạm pháp giống nhau.
C.- So-sánh giữa Việt-kiều và ngoại-kiều:
1/-Giống nhau: Tất cả mọi ràng buộc về pháp-lý, hành-chánh, thuế khóa, kiểm-soát; những quy định gắt gao về giá trị kim ngạch hối xuất. Tóm lại không có sự khác biệt về phương-diện kiểm-soát quản lý và những gì thuộc về kinh-tế, tài-chánh.
2/-Khác nhau : Nếu vì bất cứ lý do gì có liên-quan đến pháp-lý thì ngoại kiều được chi-phối bởi luật-pháp và thói quen mà quốc-tế đã chuẩn-nhận. Nhưng trong trường-hợp nầy thì Việt Kiều bị xem là "Công-dân Việt Nam”. Nghĩa là chúng thông-báo, hoặc xử phạt tùy theo ý chúng.
Chưa Quốc-gia nào có chính-sách kỳ-thị và ty-tiện với Kiều bào của mình như ngụy-quyền Cộng-sản Việt-Nam. Dưới mắt chúng, Việt Kiều là thành-phần nguy-hại cho sự tồn tại chế-độ chúng, mặc dầu Việt Kiều cũng là con ḅò sữa giúp chúng hồi sức, đồng thời Việt Kiều cũng là những kẻ vong thân, nên Việt Kiều bị Việt Cộng xem như là những kẻ nô-lệ dùng để kháng-cự và tấn-công các tổ-chức yêu nước chân chính. Tóm lại, Cộng-sản Việt Nam xem khinh, xử-dụng sai khiến Việt Kiều nhưng lúc nào cũng rắp tâm hãm hại Việt Kiều .
Khi nền kinh-tế kiệt quệ, Cộng-sản thử nghiệm chính-sách chiêu-dụ Việt Kiều bằng nhiều hình-thức như: Gởi tiền, gởi quà, trở về thăm thân-nhân, du-lịch, hợp-tác, đầu tư làm ăn tại Việt Nam.
Có khá nhiều trường-hợp những Người Quốc-Gia chân-chính rất khổ tâm khi phải gởi tiền hay phải về Việt Nam vì tình-cảm, vì trách-nhiệm đối với thân-nhân, đồng-bào, đang lâm cảnh thiên-tai, lao đao cơ cực, hay đồng đội bị lăng nhục: xin được chia xẻ những hoàn cảnh cần có sự cảm-thông ấy. Đồng thời cũng xin chân-thành nghiêng mình cảm tạ, ngưỡng-mộ những anh-hùng trở lại quê hương đối diện trực chiến với quân thù với quyết tâm lật đổ bạo-quyền Cộng-sản Việt Nam.
Đối-tượng câu chuyện hôm nay là những Việt Kiều trở về trên tư-thế của kẻ "hãnh-tiến", loại "áo gấm về làng"; những kẻ đi tìm hoan-lạc trên nỗi đau thương bất hạnh của đồng-bào, đồng đội; những kẻ ích-kỷ manh tâm đồng-lõa với Cộng-sản bất chấp lương-tâm, làm chậm hoãn ngày bạo quyền sập đổ. Hãy nhìn lại Việt Kiều đã lưu lại dấu vết gì với đồng-bào, đồng đội trong nước:
D.-Việt-kiều đã làm đồng-bào, đồng đội trong nước thêm tủi nhục, cơ cầu:
Một Mỹ-kim có giá-trị tương-đương khoảng trên 20.000 đồng Việt Cộng nên Việt Kiều tiêu xài hoang-phí làm ảnh-hưởng vật giá gia tăng trong khi tiền lương không gia tăng. Tầm cách biệt giữa người có hay không có thân nhân hoặc thành-phần sống bám theo ảnh-hưởng Việt Kiều dài ra và cao thêm. Đồng tiền ấy cũng xô đẩy những hạng người nầy với Việt Cộng gần nhau hơn và từ dó, hình thành ra giai-cấp mới gọi là liên-minh thống-trị. Đồng tiền Việt Kiều cũng là nguyên-nhân chính của các tệ-nạn hối-lộ tham nhũng, mãi-dâm, trộm cướp, cờ bạc dẫn đến bất công áp bức, và dĩ-nhiên nạn-nhân vẫn là lương dân nghèo khó.
E..-Việt-kiều giúp cho Việt Cộng chạy tội vi-phạm nhân-quyền :
Dù vô tình, thiển cận hay có toan tính, Việt Kiều tung những thông-tin, những hình ảnh phiến diện, biện hộ cho Cộng-sản; làm lu mờ chính-nghĩa, làm hàng ngũ chống Cộng bị ngộ nhận, bị trở ngại. Dưới nhiều hình-thức như hợp-tác, đầu tư, cố-vấn, trao đổi “văn-hóa, nghệ-thuật”..., và dù khoác chiếc áo “tình thương, cứu-trợ...”. Việt Kiều vẫn là lực-lượng tiếp-sức hữu-hiệu cho bọn Việt Cộng. Bởi vì chính bọn Việt Cộng mới là kẻ được thụ-hưởng, còn những người cùng khổ là đại đa-số người dân Việt Nam nghèo đói, khốn cùng chỉ được làm “vật nhân-danh”, thậm chí còn tủi nghèo cơ cực hơn, và bọn Việt Cộng càng phè phỡn tàn ác hơn. Thế nhưng chưa bao giờ Việt Kiều dám nhìn nhận sự ấu-trĩ, hèn nhát, phản-bội, và bất nhân của họ.
Tùy thuộc vào những gì Việt Kiều có và những gì Việt Cộng cần mà bọn chúng đổi thay sách lược. Sách lược hay chính sách là chiến-thuật. Chiến-lược là : trấn-lột là trả thù không bao giờ thay đổi ! Hãy đi ngược thời-gian để thêm lần nữa nhận-diện Việt Cộng đổi thay về cái gọi là chính-sách đối với Việt Kiều.
F.-Việt-Kiều là Phản-Quốc:
Cộng-sản xem những người vượt biên, vượt-biển trốn chạy chúng là phản quốc, phản-động, phản bội, là cặn bă, là bọn quen ăn bám, là vong bản, đĩ điếm, lười biếng v.v... không một h́ình-dung-từ xấu xa nhơ bẩn nào mà VC không dùng để ám chỉ, mô tả những người nầy, và dĩ-nhiên Việt Cộng cũng có chính-sách trả thù. Nếu không thoát được thì họ có thể bị bắn chết, bị hảm hiếp (nếu là nữ giới), bị lao tù đầy ải, tài sản bị tịch-thu. Bị gây muôn trùng khó khăn trong đời sống như thân-nhân bị giam giữ, bị điều-tra, vợ con, cha mẹ, anh chị em bị kềm chế quản-trị, bị kỳ thị ... Và cuối cùng chỉ có tiền và vàng mới may ra những áp-lực những khe khắt được nới lỏng nhưng cái tội Phản-Quốc vẫn còn đó, chờ cơ-hội lên án và trừng phạt.
G.- Việt-Kiều là khúc ruột nối dài:
Khi nền kinh-tế trì-trệ, tài sản quốc gia bị Việt Cộng đục khoét tham nhũng; lầm than, thống-hận vượt tràn qua sức chịu đựng toàn dân, hội đủ những điều-kiện làm cuộc bạo loạn. Việt Cộng liền nhớ ra và cải danh bọn “Phản-Quốc” kia thành Việt Kiều; rồi hóa thân cho Việt Kiều thành “Khúc ruột ngàn dặm”. Sau thời gian dè dặt thử-nghiệm, Việt Cộng thấy rằng còn có thể khai-thác tận-dụng phần bên trong của cái khúc ruột nối dài nầy. Và từ đó, thượng tầng đảng Mafia đỏ hình thành bộ phận Kiều-Vụ. Nhiệm-vụ chủ-yếu của Kiều Vụ là nghiên cứu tìm ra phương cách gom góp ngoại tệ, khả-năng, trí-tuệ của Việt Kiều hầu giữ vững chiếc ghế quyền-lực, để túi tham được phồng thêm. Bộ-phận Kiều Vụ không những chiêu dụ Việt Kiều về thăm, làm cái gọi là từ thiện mà còn về mua bán đầu tư, thực hiện chương-trình kết giao  làm nền tảng cho bọn tư-bản đỏ đi ra, bọn phản-bội đi vào. Chúng kết nạp bọn vong thân, bọn bất lương rồi tổ-chức những bọn nầy thành lực-lượng khuấy phá, tạo hỏa mù làm mờ đi chính-nghĩa, làm nản lòng những Người tâm huyết.
Nhưng hạnh-phúc không bao giờ đến với kẻ phản-bội! Không phải đó là lời răn đe mà còn là kinh-nghiệm, không những ở t́ình trường mà còn ở nhân-cách. Thật vậy, người Việt Nam định-cư nước ngoài tuy vì nhiều lý-do nhưng lại cùng một nguyên-nhân là kinh-tởm Cộng-sản, họ cũng là chứng-nhân xác nhận bọn ngụy-quyền Cộng-sản Việt Nam là quân vô lại, bất-nhân, bạc-ác không đáng để được gọi là NGƯỜI nữa. Hầu hết, trước khi ra đi Việt Kiều đều ít nhiều ấp ủ:
Một ước mơ : Cộng-sản phải đổ
Một hoài bão: Nhân-dân Việt Nam được sống đúng với giá-trị con NGƯỜI.
Thoát được xiềng ách Cộng-sản, họ sẽ thay mặt đồng bào, đồng đội c̣òn lầm than cơ cực, còn bị kềm kẹp để tố cáo tội ác Cộng-sản Việt Nam trước lương-tâm nhân-loại. Ước-mơ và ý-chí của họ thật đáng yêu và đáng kính. Họ đã làm rúng động lương-tâm loài người, và Nhân-loại cũng đã nghiêng mình cảm phục những Người Tỵ-Nạn Cộng-Sản Việt Nam, họ đă từng được:”thế giới ngưỡng-mộ như những anh-hùng”.
Nhưng rồi vì một số trong những người Tỵ-nạn Cộng-sản Việt Nam năm xưa ấy đã nhẫn tâm trở giáo chém anh em cùng chung chí-hướng, họ phản-bội ngay cả ước mơ ban đầu của chính họ. Và chắc chắn rằng họ sẽ nhận lại hậu quả từ chính những người từng là đồng cảnh, cũng từng là đồng-tâm, đồng-bào, đồng đội và cũng chính ngay từ kẻ họ đang qùy gối cúi đấu. Sự phản-bội đã có hậu-quả xảy ra. Tương-quan giữa hậu-quả và nguyên-nhân là tỷ-lệ thuận.
H.- Loại Việt Kiều áo gấm về làng :
Mang tâm địa của kẻ hãnh-tiến nên chúng lấy sự đau xót, thương hận số phận bẽ bàng kém may mắn, hay sự mơ ước của những người vất vả nghèo khổ để tự mãn, để huênh-hoang, kiêu căng và thích thú. Chúng bất chấp đạo lý tối thiểu để thỏa mãn hoan-lạc dục vọng, chúng thoả mãn thú tính ngay cả với những trẻ vị thành niên (lắm khi là con em của thân nhân, bè bạn, đồng đội năm xưa). Thế nhưng chúng cũng rất hèn hạ với bọn cán-bộ Cộng-sản để an toàn. Chính bọn Việt Kiều nầy, phần đông đã cung-cấp tin-tức, vu khống người Việt hải-ngoại cho Việt Cộng, biện-hộ và đồng-lõa sự tham bạo của Việt Cộng với nhân-dân trong nước. Khi trở lại nơi định-cư, chúng rỉ tai tuyên-truyền, nghe ngóng để báo cáo. Bọn Việt Kiều vô lại nầy tình-nguyện làm nô bộc không công, làm con chó giữ nhà và đánh cắp tài sản của người khác, có khi Việt Kiều cống nạp hoặc hoảng sợ trước quyền lực mà cúi đầu phủ phục trước mũi giày Cộng-sản hoặc a ṭòng với cộng sản trong những mưu-đồ bất chính. Thời gian qua, một số trong bọn nầy đă bị Việt Cộng cướp đoạt tài sản qua dàn dựng hoạt cảnh tai nạn lưu thông, du đãng xã hội đen; có tên bị thanh-toán do ghen tuông.
I.-Việt-Kiều nhân-danh tình thương:
Tình thương và lòng nhân-ái, Quê-hương và Tổ-quốc luôn trên đầu môi chót lưỡi bọn Việt Cộng, Việt Kiều. Kẻ lưu-manh tàn bạo thường che giấu chân-tướng bằng mỹ ngữ. Nên nạn nhân thiên tai, người nghèo khổ tật nguyền, những đồng đội ngày xưa oanh liệt nay gãy cánh bất hạnh lại bị bọn Việt-cộng liên minh với Việt Kiều bất lương kinh-doanh. Lấy tình thương làm bình phong. Nếu bị vạch mặt, chúng sẽ lẩn trốn với tấm thẻ bài khẩu hiệu không cấm vận tình thương (nói theo ngôn ngữ của Nhật-Tiến). Có người còn tính đến cả chuyện xây nhà, xây trường học, đào giếng, trả tiền lương cho cô giáo,thầy giáo, mở trường dạy nghề, xóa đói giảm nghèo v..v...(như của Nguyễn xuân Bảo hay của Vũ thành An - nghe đến đây Cộng-sản vừa ngạc-nhiên vừa mừng!)
Đây là trách-nhiệm của ngụy-quyền Cộng-sản, toàn dân Việt Nam trong và ngoài nước có nghĩa-vụ bắt buộc chúng phải trả lại quyền sống, quyền làm Người cho Dân Việt. Tại sao kinh-tế Quốc-doanh bao giờ cũng ghi nhận thua và ngân-sách Quốc-gia phải bù lỗ nhưng chúng không cho giải tư ?
Bởi vì, toàn-bộ các công-ty quốc-doanh phải đài thọ cho cá-nhân và toàn gia-đình của non 500 ủy-viên trung-ương đảng vừa hưởng bổng lộc suốt đời, vừa có tiền gởi ở ngoại quốc để thủ thân khi có biến động, vừa phải chi cấp cho khoảng 2.000 du học sinh là con cháu bọn cán-bộ.
Theo sự tiết-lộ của "Tổng công-ty Xuất khẩu hải sản Miền Nam Seaprodex" (đơn-vị trực tiếp chi trả mọi chi-phí cho Mai-chí-Thọ, và tên Đại-tá quản-gia của y, cho Vũ-đình-Liệu và một số quan chức đỏ khác) thì cứ 4 tháng 1 du học sinh (loại được du học do lý lịch) phải đóng cho trường học (College hay University) khoảng 1.500 USD học phí, tiền chi tiêu (ăn ở, xe cộ, bảo-hiểm...) 1.500 USD nữa. Như thế, cứ mỗi 4 tháng, chỉ riêng cho con cháu bọn cán-bộ đang du học thì toàn dân Việt Nam phải móc ra khoảng 6 triệu USD. Có biết nỗi niềm nầy không hỡi phường bất lương !!!
J.-Việt-Kiều văn hóa, văn-nghệ:
Loại Việt Kiều nầy trở về khúm núm bợ đỡ xin áo cơm (như Hương Lan, Hoài Linh, Lệ Thu, Chí Tài, Chế Linh, Phượng Mai, Ý Lan …).Nhưng áo cơm không đủ cho nô bộc, có đâu cho lũ phản trắc. Bọn nầy bị lừa, chưa về thì háo-hức, lúc về bị khó khăn và trở ra bị chê bai là hương sắc tàn phai, là rẻ tiền, là phản giáo dục, là phi nghệ thuật (xem Thời-luận số ra ngày 12 và 19/8/2000) và đương-nhiên loại Việt Kiều nầy không tránh khỏi bị Người Việt Tỵ-nạn vốn là những khách hàng đang nuôi sống họ trách cứ hoặc tẩy chay.


Chưa v, c tưởng mình ngon
V ri cúi mt như con chó hèn.
Hay
Ngm đy mt ming bn nhơ
Nh ra e thn, nut vào thi tha
Vit kiu v nước hát ca,
Thân con chó gh lê la gm bàn.
Ước mong các ca-sĩ, các trung-tâm băng nhc không dm lên ni đau ca đng bào dù nhìn vi chiu hướng nào.
k.-Vit-Kiu v hơp tác kinh-doanh:
Bn ny là nhng tên thương lái vô lương-tâm, chúng biết đng-bào, đng đi nghèo khó, cn tin, phi nhn ni, chu đng, nên chúng móc ngoc vi bn cường quyn chèn ép bóc lt hà hiếp đng-bào. Nhng v làm s nhc công-nhân Vit Nam như bt quỳ, đánh giày lên đu, pht tr lương…...nhng ch Việt Kiều ny có thái-độ gì không ? Thưa không, rt rõ ràng là không !
Dưới mt bn Việt Cộng thì Việt Kiều phi là vt hy-sinh: Đ bo-v manh mi làm ăn, đ t thái-đ quyết-lit vi nhau khi ni-v b phanh phui, đ gi bí mt lưu manh thương trường, lp tc Mafia Việt Cộng x t Việt Kiều đ bt đu mi như v bà Vit-kiu Nguyn Th Hip Canada, hay v tng vào tù đ trn lt như Vit-kiu Trnh-vĩnh-Bình Ḥòa-Lan vi s vn b tước đot lên ti 20 hoc 30 triu M-kim; và Việt Kiều Lưu-hùng-Sơn tc Sonny Lưu 55 tui trú ti vùng Little Sài-Gòn, Nam California, Hoa-kỳ đang b “rc ri” vì mang s tin 25 triu đô-la v làm ăn và đang qu ly khn cu được b ca cu ly thân !
Thc tế người dân trong nước quá bi thương khn cùng. Đng-bào căm hn Vit-kiu đã đóng vai Vit-gian, đng lõa vi Vit-cng, gieo bao đau thương tan tác thãm-nn, nên trong nước có câu ca-dao mi như sau:
Vit-Gian, Vit Cng, Vit-Kiu,
Ba thng Vit y, tiêu-điu Vit Nam.
Hay :
Vit-gian, Vit-cng, Vit-kiu,
Ba thng Vit y, đem bêu thng nào ?
Vit-kiu, Vit-cng, Vit-gian
Ba thng gic y, thng nào cũng bêu.
Việt Kiều tại Pháp cần lưu ý :
Đ chm dt câu chuyn trao đi hôm nay, tôi xin lược trình bày phóng-s ca ký giXuân Mai báo "Affaires" s 4 ti Paris :
Ông Nguyn Minh Tuyn, 59 tui, đnh-cư ti Pháp năm 1980 vi lá đơn có li l chân thành thng-thiết như sau :
"Nếu tôi li, nhà cm quyn CSVN s bt giam, đánh đp và b tù tôi không có ngày ra. Với ly-do nhân-đo, tôi trân-trng thnh-cu nước Pháp vui lòng chp-thun cho tôi được t-nn chính-tr, sng tm dung trên mnh đt t-do ny, và tôi ch tr v x cũ, khi nào Quê-hương tôi không c̣on duy trì chế Cng-sn”.
Nhưng ông Tuyn đă phn-bi tư-cách t-nn ca ông liên-tc t năm 1995 đến Tết Canh-Thìn 2.000 ti 7 ln (Chôn bà ni 3 ln, 2 ln chôn b và 2 ln chôn m mà không h xin phép OFPRA (Office Francais de Protection des Réfugiés et Aptrides – Cơ-quan bo-vnhng người t-nn và vô T-quc ti Pháp) hoc giy Sauf-Conduit (h-chiếu đc-bit) ca Cnh-sát đa phương.
Ngày 26.7.2000 ông Tuyn và 544 người Vit khác được OFPRA gi thư thông-báo rút li th t-nn vi lý-do : "Ông tự ý tr v x cũ, khi chế đc-tài Cng-sn chưa chm dt, nhưng không hi ý-kiến hoc thông-báo cho cơ-quan chúng tôi biết, đ bo-v sinh mng cho ông, tc là ông đã t b quyn t-nn chính-tr, không cn đến s che ch ca chúng tôi na. Chiếu theo đ́u I khon A-2 ca Hip-đnh Genève ngày 28.7.1951, chúng tôi thu hi li th t-nn. Đng thi cũng trình lên Cao-y T-Nn Liên-Hip-Quc, k t hôm nay, OFPRA không còn chu trách-nhim vi ông, về tình-trng cư-trú, xin vic làm, hưởng tr -cp xă-hi, theo din t-nn chính-tr.
Được biết t năm 1988 đến tháng 7 năm 2000, tng s người Vit lâm vào t́nh-trng tương-t22.417 người.
Theo li ông M.Motu thì người t-nn có quyn tr v x cũ trong trường-hp đc-bit như con cái, cha m, anh ch em rut b bnh nng, đang hp hi, chết... Trong các trường hp đó người t-nn có th đến Préfecture s ti xin cp Sauf-Conduit. S phm lut nếu đến Đi-s Việt Cộng xin visa trước khi có h-chiếu đc-bit.
Tên trưởng-phòng cp chiếu-khán Việt Cộng rt đu cáng khi gii-thích vn-đ ny : "nhà nước Vit Nam rt có thin-chí trong vn đ hàng tháng cung cp danh-sách ghi nhn tt-c người Vit Nam mang Titre de Voyage (th thông-hành) lên s-quán xin nhp cnh cho Préfecture biết đ Préfecture thông báo li cho OFPRA. Chúng tôi hp tác vic y vi chính-ph Pháp là nhm mc-đích chng-minh cho dư lun Quc-tế thy rng, bn Vit-kiu ny lếu láo, chy qua đây vì lý-do kinh-tế, kiếm vic làm, ch không phi vì nhà nước chúng tôi đàn áp, bt b, tra tn, giam cm, chà đp nhân-quyn như bn h đă tng vu-khng”.
Và mt gii chc cao cp trong b Ngoi-giao Pháp mnh-m phn-đi :
- Chính-ph Pháp không bao gi hi người vô ti như thế. Chính-ph Việt Cộng t lâu, qua các trào Võ-văn-Sung, Mai-Văn-B, Trnh-ngc-Thái, Nguyn-chiến-Thng và Nguyn-mnh-Dũng đã xem người Vit Nam là thành-phn cc-kỳ phn-đng, cn phi trit-h, khéo-léo áp-dng chính-sách gy ông đp lưng ông” .
- D dãi trong vic cp chiếu khán cho người Vit t-nn v thăm nhà, dù tha biết rng, h không có quyn. Đây là cách thc giúp người t-nn phm pháp, đ mt ngày kia h s b OFPRA rút th ty-nn.
- Sau khi cp chiếu khán ba- bãi, tòa đi-s li ra thông-cáo cho B Ni-V Pháp biết rỏ tên tui tng người xin cp visa v Vit Nam .
- Mt khi b rút th ty-nn, h b mt luôn th thường-trú (Carte de séjour). Mun xin vic làm phi có th Lao-đng (Carte de travail). Nếu mun cư-ng trên 3 năm phi trình Passport ca CSVN. Như thế người t-nn đang được sng T-do, bng tr thành công-dân Việt Cộng, đt mình dưới s kim-soát ca CSVN cho đến mãn kiếp.
- Chính-ph CSVN cũng phi hiu rng, tán tr, hoc giúp đ người phm pháp, cũng phm ti đng-lõa. Cp visa cho người t-nn tc là c ý phm lut bang giao gia hai nước. Chúng tôi nghĩ, đã đến lúc nên đt li vn-đ ny vi chính-ph CSVN”.
Đng-bào trong Nước đã đy p thng kh và căm-hn. Chm dt ngay nhng con người manh-tâm mang "lòng Vit gian" trong chiếc áo Việt Kiều. Nhng hình nh nêu trên chc cũng đ thc tnh lương tâm mt s người,nếu có và còn mun tr thành VIT KIỀU.
Tống-Phước Hiến

No comments:

Post a Comment